Trong khoảng thế kỷ XVII-XVIII, đô thị thương cảng Hội An trở thành trung tâm buôn bán sầm uất của xứ Đàng Trong, ở nơi đây hoạt động giao lưu buôn bán diễn ra sôi nổi, tấp nập giữa các vùng miền trong cả nước, cũng như nơi các thương nhân nước ngoài đến trao đổi hàng hóa và buôn bán. Thời kỳ này, các hiệu buôn ở Hội An ra đời gắn liền với những nhà buôn nổi tiếng như La Thiên Thái, Diệp Đồng Nguyên, Tấn Ký, Hiệp Ký, Quân Thắng v.v…Trong đó, hiệu buôn Diệp Đồng Nguyên trở thành một địa điểm buôn bán sôi nổi và nhộn nhịp.
Văn học dân gian là kho tàng lưu giữ truyền thống văn hóa dân tộc và tính cách của con người từ ngàn xưa cho đến nay. Ca dao xứ Quảng cũng phản ánh toàn bộ truyền thống, đời sống, văn hóa... xứ Quảng, đặc biệt hơn cả là tính cách của người Quảng được thể hiện sâu sắc, độc đáo và đầy ấn tượng... Theo cách hiểu chung thì tính cách “là tổng thể những đặc điểm tâm lý ổn định trong cách cư xử của con người, biểu hiện thái độ điển hình của con người đó trong những hoàn cảnh điển hình. Từ ý nghĩa ấy chúng ta có thể suy ra rằng, tính cách của cư dân một vùng đất là tổng thể những đặc điểm tâm lý mang tính bền vững trong cách ứng xử của họ, có thể là của nhiều thế hệ nối tiếp nhau, được biểu lộ bằng những nét điển hình trong hoàn cảnh điển hình”(Mai Văn Mô, Văn hóa Quảng Nam những giá trị đặc trưng, Kỷ yếu hội thảo 2011, Sở Văn hóa Thông tin Quảng Nam, tr 205).
1. Nguồn gốc của tín ngưỡng thờ Môn thần Theo các học giả Trung Quốc, khởi nguyên của tín ngưỡng thờ Môn thần bắt nguồn từ quan niệm sùng bái tự nhiên và quan niệm tín ngưỡng thần linh của con người thời kỳ nguyên thủy. Vào thời kỳ này, con người chủ yếu cư ngụ trong các hang động tự nhiên. Khi xã hội phát triển cao hơn, họ mới dần dần học được kỹ thuật dựng nên nhà cửa. Từ đây, ngôi nhà và con người có mối quan hệ mật thiết, không thể tách rời. Bởi ngôi nhà là nơi có thể phòng ngừa được thú hoang và địch hại, cũng là nơi có thể che mưa che gió, cất giữ thực phẩm và tài sản... Cảm kích vì tác dụng to lớn này, mà trong tâm tưởng con người đã hình thành nên một vị thần của ngôi nhà (trong đó có Cửa) để cúng tế nhằm báo đáp ân đức. Đây chính là nguồn gốc đầu tiên của tín ngưỡng thờ Môn thần.
Trong chiến dịch Thu - Đông năm 1967, cùng với các địa phương trong Tỉnh, quân và dân Hội An đã liên tục tổ chức các trận tập kích có quy mô lớn vào những mục tiêu quan trọng của địch ở nội ô và giành thắng lợi giòn giã. Một trong số đó là trận tập kích vào tiểu đoàn công binh 102 của ngụy.
Trong hành trình thầm lặng đi tìm kịch bản cổ Hán-Nôm, lần đầu tiên bả trạo được ký âm. Những đóng góp của một nhạc sĩ xứ Quảng đã góp phần không nhỏ để loại hình diễn xướng dân gian này trở thành di sản văn hóa phi vật thể quốc gia…
(Kienthuc.net.vn) - Chùa Cầu không chỉ là linh hồn của người dân phố cổ Hội An mà trên hết là địa chỉ tâm linh với những câu chuyện kỳ bí suốt bao đời nay.
Liệt sĩ Trương Bút tên thật là Trương Thanh Tường bí danh Lưu sinh năm 1918 tại thôn Thanh Nhì - Cẩm Thanh - Hội An. Thân sinh của ông là cụ Trương Thành Toại là nhà nho yêu nước và mẹ là cụ Nguyễn Thị Ngữ. Vợ ông là bà Nguyễn Thị Tráng là cơ sở cách mạng tham gia một số công tác ở địa phương như tổ trưởng nông hội, tổ trưởng phụ nữ,... Ông sinh ra trong một gia đình trung nông, ở vùng quê giàu lòng yêu nước, sớm giác ngộ cách mạng, trong phong trào cải tổ hương thôn ông được nhân dân trong xã tín nhiệm cử làm lý trưởng. Trong 3 năm làm lý trưởng ông đã có quan hệ tốt với nhân dân, không nhận lễ vật, quà biếu của dân. Trong quá trình làm việc ông đã chia đất công cho dân nghèo, chống tệ nạn rượu thịt, cải cách nông thôn. Đặc biệt là đã giải thoát cho những người cách mạng bị địch truy nã...
Cẩm Phô là một trong những làng được hình thành khá sớm ở Hội An, khoảng cuối thế kỷ XV. Dưới thời phong kiến, làng Cẩm Phô có diện tích khá rộng, được chia thành tam ấp Tu Lễ, Xuân Lâm, Xuân Mỹ, tam châu: Xuyên Trung, Châu Trung, Hà Trung, trong đó ấp Tu Lễ nằm ở vị trí trung tâm, cư dân sinh sống chủ yếu bằng nông nghiệp và thương mại.
Những chuyện sau đây là do tôi được nghe kể và xin thuật lại để bạn đọc cùng giải trí với cách nói láo của người Quảng Nam.
Nói láo Quảng Nam là một loại hình văn hóa trí tuệ. Một người nói láo; năm sáu người ngồi nghe. Câu chuyện nói láo được họ ghi nhớ rồi kể lại cho những người khác nghe. Cứ thế, nó trở thành một thứ văn chương dân gian truyền khẩu. Tính dị bản tất yếu phải có. Người ta có thể kể một chuyện nói láo được nghe từ một người khác và bảo đó là của mình. Không sao, ở đây không đặt ra vấn đề bản quyền, vấn đề sở hữu trí tuệ. Một chuyện nói láo ở Điện Bàn có thể được một người đem kể lại ở Tam Kỳ. Anh ta có thể thay thế nhân danh, địa danh cho phù hợp, miễn là việc kể lại không phương hại đến nội dung căn bản của câu chuyện.
Cái chi cũng phải cần một lộ trình. “Cai” nói dóc cũng cần có lộ trình đàng hoàng như cai thuốc lá. Ngày Sơn Nam tiên sinh qua đời, tôi đến viếng vong linh ông. Nhìn ông nằm nghiêm chỉnh trong quan tài, tôi đổ nước mắt khóc và nhớ thương ông. Rồi nghĩ đến kỹ thuật nói dóc của ông và chuyện ông phê phán tôi nói dóc, tôi lại buồn cười. Hỡi Sơn Nam tiên sinh! Tôi đã hứa với ông rằng tôi sẽ cai nói dóc nhưng vẫn chưa bỏ được thói nghiện nói dóc.
LTS: Người Quảng Nam có năng khiếu hài hước. Một trong những biểu hiện của năng khiếu đó là nói láo. Nói láo trở thành một nét văn hóa bình dân Quảng Nam, là hình thức tấu hài khá trí tuệ, cũng là một cách cãi trong thói hay cãi của người Quảng Nam. Khác hẳn với nói xạo, nói phỉnh, nói gạt, nói điêu, nói láo Quảng Nam không gây ra thiệt hại cho người nghe mà chỉ nhằm mục đích… gây cười phục vụ cho đời. Báo Quảng Nam xin giới thiệu những câu chuyện “nói láo” của chính nhạc sĩ, nhà báo Vũ Đức Sao Biển cũng như những chuyện do ông được nghe kể, nay thuật lại để bạn đọc hiểu thêm về một nét văn hóa độc đáo của người Quảng Nam.
Đồng chí Trần Thị Dư sinh năm 1910 ở làng Cẩm Phô, Hội An, từ nhỏ mồ côi mẹ nên sớm phải lao động để nuôi thân. Trong hồi ký Buổi đầu gieo hạt, đồng chí Dư kể “… tôi làm ở xưởng chè Phi - a của Pháp trong thị xã Hội An. Xưởng này có 1.000 công nhân… chủ xưởng trả lương cho chúng tôi rất thấp: 12,13 xu một ngày… Đến năm 1925, xưởng này đóng cửa, tôi không còn công ăn việc làm, đành về nhà đi bán mì vằn thắn”.
Địa danh ở Hội An là bộ phận quan trọng của di sản văn hóa phi vật thể, là một trong những thành tố cấu thành văn hóa Hội An, góp phần tạo cho văn hóa Hội An mang một sắc thái riêng, đa dạng và phong phú. Với ý nghĩa đó, trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa Hội An, cần phải nghiên cứu, bảo tồn và phát huy các giá trị của các địa danh ở Hội An. Qua bước đầu tiếp cận, có thể khái lược một vài đặc điểm về địa danh ở Hội An như sau:
Đến Hội An, du khách đừng bỏ lỡ dịp thử qua món cơm gà. Mặc dù tên của món ăn này có thể không xa lạ gì đối với nhiều người, nhưng cơm gà Hội An có cách chế biến và hương vị độc đáo riêng. Cơm gà được bán nhiều trên các ngã phố, nhưng tập trung nhiều nhất vẫn là ở các đường Phan Chu Trinh, Hoàng Diệu, Lê Lợi... với các quán cơm và gánh cơm nổi tiếng như: cơm gà bà Bụi, cơm gà bà Minh, cơm gà kiệt Sika ....
Để đối phó với phong trào đấu tranh cách mạng của quân và dân Hội An nói riêng, của tỉnh Quảng Nam nói chung, thực dân Pháp rồi đến đế quốc Mỹ cùng bọn tay sai đã lập ra một số nhà lao ở Hội An để giam cầm, tra tấn cán bộ, chiến sĩ và đồng bào yêu nước của ta. Nhà lao Hội An do đế quốc Mỹ và tay sai lập ra cũng không ngoài mục đích đó.
(VTR) - Đô thị - thương cảng Hội An là kết quả của hơn 2.000 năm lịch sử khai phá, điểm gặp gỡ giao lưu giữa các nền văn hóa Champa, Việt, Hoa, Nhật, Ấn, Đông Nam Á và phương Tây… Bên cạnh giá trị văn hóa phi vật thể độc đáo, đây còn là nơi tập trung mật độ di tích dày đặc với hơn 1.360 di tích các loại, chủ yếu là di tích kiến trúc nghệ thuật”. Khác biệt không gian phố cổ, cù lao Chàm là một quần đảo gồm 8 đảo khác nhau, với khoảng 3000 dân. Đảo có môi trường không khí trong lành, các làng chài với những bãi biển còn hoang sơ, hệ sinh thái đa dạng với khoảng 188 loài san hô, 66 loài thân mềm, 77 loài tảo, thảm cỏ biển, 4 loài tôm hùm, 200 loài cá rạn san hô. Đô thị cổ Hội An và Khu dự trữ sinh quyển cù lao Chàm có mối quan hệ mật thiết về địa giới hành chính, lịch sử và du lịch. Kể từ khi được UNESCO công nhận năm 2009, cù lao Chàm đóng vai trò như một vệ tinh đẹp của du lịch Hội An, mở rộng không gian du lịch ra phía biển.
Trong quá trình Nam tiến dưới thời các chúa Nguyễn, các làn sóng di cư của cư dân Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ diễn ra mạnh mẽ, trong đó có Quảng Nam. Trong dòng người Nam tiến đó, các vị thủy tổ của tộc Nguyễn Viết và các tộc làng đã chọn đất để lập làng Đế Võng. Nguyên thủy trước đây, cư dân làng làm nghề chài lưới, sống ở ven sông, không có đất. Theo sắc tứ hiện còn tại đình Đế Võng cho biết, làng Đế Võng thuộc tổng Thanh Châu, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Đình Đế Võng được xây dựng để thờ các bậc tiền hiền của làng, văn bia mộ vị tiền hiền của Tộc Nguyễn Viết đồng thời là tiền hiền của làng Đế Võng đã ghi: Vào khoảng thời Thịnh Đức (1653-1658) và thời Cảnh Trị (1663 -1671) các vị đã cùng một số dân từ miền Bắc đến cư trú ở đây lập làng Đế Võng. Theo phong tục chung của người Việt Nam, đình nơi thờ cúng sinh hoạt chung sẽ xuất hiện ngay sau khi đã định hình làng, xã không lâu. Đình Đế Võng cũng trong quá trình như vậy
Chùa Kim Bửu tọa lạc tại thôn Trung Châu, xã Cẩm Kim, thành phố Hội An là một công trình tôn giáo không những có giá trị về mặt kiến trúc nghệ thuật mà còn là nơi diễn ra nhiều sự kiện lịch sử liên quan đến hoạt động cách mạng sôi nổi của Đảng bộ địa phương nói riêng, tỉnh Quảng Nam nói chung.