Chùa Vạn Đức là một trong những ngôi chùa lớn thuộc Thiền Phái Lâm Tế Chúc Thánh ở Hội An. Chùa do thiền sư Minh Lượng khai sơn. Thiền sư Minh Lượng sinh năm Bính Dần, 1626 tại huyện Triều Dương, phủ Triều Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Từ nhỏ, thiền sư xuất gia theo học Hòa thượng Nguyên Thiều và đắc đạo với pháp danh Minh Lượng, tự Nguyệt Ân, hiệu Thành Đẳng, nối pháp đời 34 dòng Lâm Tế Chúc Thánh.
Vào thế kỷ XVII, với vai trò là trung tâm thương mại quốc tế sầm uất, Hội An không chỉ là nơi diễn ra sôi nổi nhiều hoạt động kinh tế nội - ngoại thương mà còn là nơi hội nhập, giao lưu văn hóa đa chiều hết sức mạnh mẽ. Một trong những kết quả nổi bật của quá trình giao lưu hội nhập văn hoá Đông - Tây tại Hội An trong giai đoạn này đó là đã góp phần quyết định trong việc hình thành chữ quốc ngữ.
Miếu ấp Đồng Nà hiện đang toạ lạc trong khu dân cư của Tổ 11, thôn Đồng Nà, thuộc xã Cẩm Hà, cách trụ sở UBND xã Cẩm Hà khoảng chừng 1km về hướng Đông Bắc.
Trong thế kỷ XVII, XVIII đã có nhiều người nước ngoài đến với Hội An đóng góp vào sự phát triển thương mại, truyền giáo… của vùng đất cảng thị quốc tế này vào những thế kỷ XVII, XVIII.
Nguyễn Phúc Chu là con trai trưởng của chúa Nguyễn Phúc Thái (1650 - 1691) và vương phi Tống Thị Lĩnh. Quê gốc của Ông ở làng Gia Miêu, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hoá (nay là xã Hà Long, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá).
Cùng với một số loại hình khác như đình, miếu, giếng, nhà thờ tộc, …, mộ cũng là một trong những loại hình góp phần làm phong phú, đa dạng di tích ở Hội An.
Với vị trí là vùng đất “Hội thủy, hội nhân” nên Hội An trở thành nơi “Hội tụ văn hóa vô cùng đa dạng và độc đáo”. Tính đa dạng, độc đáo đó được thể hiện ở nhiều thành tố của di sản văn hóa vật thể và phi vật thể ở Hội An.
Cẩm Thanh là xã vùng ven biển, nằm cách trung tâm thành phố Hội An chừng 3km về phía Đông Nam. Theo số liệu năm 2003, Cẩm Thanh có tổng diện tích tự nhiên là 879,51ha, dân số khoảng 6.574 người, chia thành 8 thôn.
"Đồ ăn thức uống" ở phố cổ Hội An nhiều không kể hết, ngoài những món ăn đặc sản mang tính phố thị như cao lầu, hoành thánh, bánh bao bánh vạc ... còn có nhiều món ăn dân dã nhưng không kém phần hấp dẫn và ngon miệng đó là mỳ Quảng, bánh bèo, bánh xèo, hến trộn, bánh tráng đập, chè bắp, đậu hủ v.v...
Ngôi nhà số 108 đường Nguyễn Thái Học, phường Minh An, thành phố Hội An hiện nay là di tích loại I, thuộc loại hình nhà phố, mang phong cách kiến trúc Pháp nằm trong Khu phố cổ Hội An. Nơi đây không đơn thuần là di tích có giá trị về mặt kiến trúc mà còn có giá trị về mặt lịch sử.
Trong vài thế kỷ trước, Hội An là nơi tụ cư của nhiều dân tộc: Việt - Chăm - Hoa - Nhật, mỗi dân tộc có một nét văn hoá đặc trưng riêng, tạo nên vùng đất Hội An với nhiều lễ hội, lễ nghi truyền thống độc đáo. Trong đó, lễ rước Long Chu là một sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng dân gian được bảo tồn, lưu truyền đến hiện nay cùng với nhiều loại hình di sản văn hoá phi vật thể khác có sức thu hút mạnh mẽ đối với du khách khi đến Hội An.
Chùa Kim Bửu (Kim Bửu tự 金 寶 寺) được đánh giá là một trong những ngôi chùa làng có quy mô bề thế, có lối kiến trúc cổ xưa gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của làng Kim Bồng xưa, xã Cẩm Kim ngày nay. Hơn thế nữa, nơi đây còn ghi dấu những sự kiện quan trọng về quá trình đấu tranh cách mạng của Cẩm Kim nói riêng, của Hội An, của Quảng Nam nói chung. Do đó, trong nhiều năm qua trong khi tìm hiểu, nghiên cứu về làng mộc Kim Bồng các nhà nghiên cứu đều có những khảo sát, đánh giá về vai trò của di tích tôn giáo quan trọng này. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn những vấn đề liên quan đến ngôi cổ tự vẫn chưa được làm sáng tỏ, cụ thể là niên đại ra đời và tên gọi “Bửu Kim tự” (寶 金 寺) của ngôi chùa...
Gần đây, nhờ sự mở rộng hợp tác quốc tế trên lĩnh vực nghiên cứu khoa học nên nhiều tư liệu nước ngoài liên quan đến quá trình giao lưu văn hoá, trao đổi kinh tế giữa Hội An, Đàng Trong nói riêng, Việt Nam nói chung với các nước trong khu vực và trên thế giới dần được tìm thấy và giới thiệu, công bố rộng rãi. Trong số đó có một loại tư liệu nói về tàu thuyền các nước bị tai nạn khi đi lại trên biển và phiêu dạt đến Việt Nam, trong đó có Hội An. Đây là những tư liệu chứa đựng nhiều thông tin thú vị liên quan đến đất đai, phong thổ, sinh hoạt văn hoá của vùng đất nơi những nhà du thám “bất đắc dĩ” buộc phải đặt chân đến. Có thể kể một số tác phẩm loại này đã được công bố như Hải Nam tạp trứ (1) của Thái Đình Lan, người đời Thanh, Trung Quốc; Dị quốc phiêu đãng ký văn (2); An Nam quốc giang phong tục tả sinh đồ (3) của Nhật Bản; Trú Vĩnh Biên của Triều Tiên… Trong đó, Trú Vĩnh Biên có thể coi là một tư liệu sớm nhất đề cập đến sự có mặt của người Triều Tiên ở Hội An, Đàng Trong nói riêng, Việt Nam nói chung.
Ý thức được tầm quan trọng của hôn nhân - cưới hỏi đối với một đời người, cha ông ta đã đặt ra những lễ nghi trang trọng, thiêng liêng để tạo ra những dấu ấn không phai trong tâm khảm của đôi vợ chồng trẻ, qua đó tạo cho họ ý thức về trách nhiệm và nghĩa vụ đối với nhau, cũng như đối với gia đình, con cái, với dòng họ gia tiên. Tuy nhiên, theo nhận biết của chúng tôi, ở Hội An - xứ Quảng trước đây, hôn nhân - cưới hỏi có phần giản lược hơn về một số lễ tục so với một số địa phương ở phía Bắc và ngay cả vùng Thừa Thiên - Huế.
Trong năm 1907, đầu 1908, chính quyền của Pháp cùng với triều Nguyễn ra lệnh tăng sưu, thuế. Điều này khiến cho người dân nhất là ở nông thôn đang khó khăn lại càng khó khăn hơn. Trong hoàn cảnh đó, vào đầu năm 1908, tại làng Phiếm Ái - huyện Đại Lộc, trong một bữa giỗ, các ông Lương Châu, Trương Hoành, Hứa Tạo, Trương Tốn, Trương Côn, Trương Đính… đã bàn tính, thảo đơn kháng thuế, cự sưu.