Một vài thông tin về vị quan tứ phẩm Nguyễn Viết Ngôn qua tư liệu

Thứ tư - 05/11/2025 03:34
Nguyễn Viết Ngôn, người làng Cẩm Phô (nay là phường Hội An, thành phố Đà Nẵng), làm quan dưới triều nhà Nguyễn, từng giữ đến chức Minh Nghĩa Đô uý Quản cơ cơ Trung Chấn thuộc Trung quân, trật chánh tứ phẩm.
Mặc dù không được Quốc sử quán triều Nguyễn liệt vào hàng Công thần trong Đại Nam liệt truyện, song lại được triều đình nhà Nguyễn 2 lần ban cấp sắc phong với những lời lẽ biểu dương: “…là người mạnh mẽ, có tiếng tăm trong việc dùng gươm, mác, thuần thục các loại binh khí của việc quân, từng trải khó khăn trong quân nhu, được huấn luyện nắm vững binh khí, chuẩn xác trong việc thu phục quân địch, thận trọng suy tính mà tiến lùi khác nhau. Những thành quả tốt đẹp này là điều đáng được khen ngợi[1]. Qua tiếp cận các nguồn tư liệu, bài viết hệ thống, giới thiệu một vài thông tin về vị quan tứ phẩm này.
 
1
Bản sao Sắc phong Nguyễn Viết Ngôn thăng nhận chức Minh Nghĩa Đô uý Quản cơ cơ Trung chấn thuộc Trung quân, trật chánh tứ phẩm ngày 2 tháng 2 năm Minh Mạng thứ 18 (1837)
 
Theo các tư liệu ghi chép về Nguyễn Viết Ngôn hiện lưu trữ tại Trung tâm Bảo tồn Di sản Văn hóa Thế giới Hội An[2] (2 bản sao sắc phong và 11 bản tư liệu gồm chiếu, văn bằng, tờ tuần cấp, đơn xin, trong đó tư liệu có niên đại sớm nhất vào năm Minh Mạng thứ 3 (1822) và muộn nhất vào năm Duy Tân thứ 4 (1910)), bước đầu chúng tôi chưa thể xác định được năm sinh và mất của vị quan tứ phẩm Nguyễn Viết Ngôn, chỉ biết ông không có con cái nối dõi, có một người cháu là Nguyễn Văn Thành (cháu gọi Nguyễn Viết Ngôn là tổ bá [anh trai của ông nội]) cùng quê quán ở xã Cẩm Phố (Cẩm Phô), tổng Phú Triêm Hạ, huyện Diên Phước, Phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam[3]. Qua đối chiếu phả hệ tộc Nguyễn Văn phái Nhất - phái 2 (phường Hội An)[4], được biết Nguyễn Viết Ngôn là đời thứ 7 của tộc Nguyễn Văn. Cha là Nguyễn Văn Kiếm, mẹ là Trần Thị Nghị. Ông có 11 anh chị em đều mang họ Nguyễn Văn, chỉ riêng mình ông mang họ Nguyễn Viết.

Nguyễn Viết Ngôn làm quan dưới triều vua Minh Mạng, nguyên trước được giữ chức Cai đội đội Hầu Lí thuộc Trung đồn Trung quân Tiền doanh Thần Sách quân, năm Minh Mạng thứ 3 (1822) được bổ chức Cai đội đội 7 thuộc vệ Phấn Võ, tước Ngôn Đức hầu. Năm Minh Mạng thứ 9 (1828), ông được cấp văn bằng kỷ lục một bậc do có công lao chuyên chủ việc xây dựng trấn thành Thanh Hóa, đến năm Minh Mạng thứ 10 (1829) ông được thưởng văn bằng kỷ lục một bậc nhờ công lao trấn giữ ở ba đạo biền binh ở Trấn Ninh, Trấn Tĩnh, Trấn Định (thuộc khu vực Nghệ An). Về sau ông tiếp tục được cấp thưởng văn bằng kỷ lục một bậc nhờ lập công tiêu diệt thổ phỉ ở Tuyên Quang, thu phục được đồn luỹ Đại Đồng tại địa phận xã Lãnh Thuỷ[5].

Năm Minh Mạng thứ 15 (1834), Nguyễn Viết Ngôn được cấp văn bằng tạm bổ chức Phó vệ uý vệ Diệu Võ thuộc Tả doanh[6]. Đến năm Minh Mạng thứ 16 (1835), ông được sắc phong bổ nhận chức Phó quản cơ cơ Trung chấn thuộc Trung quân: “Chiếu sắc cho Cai đội sung quyền Diệu võ vệ Phó vệ uý là Nguyễn Viết Ngôn tòng quân nhiều năm, chuyên tâm cần mẫn. Nay chuẩn được bổ nhận chức Phó quản cơ cơ Trung chấn thuộc Trung quân, quản lĩnh binh lính của cơ cùng quan lại địa phương phân phát công vụ. Nếu giữ chức không chuyên trách đã có phép nước. Kính thay!”[7].

Năm Minh Mạng thứ 17 (1836), Nguyễn Viết Ngôn được cấp bằng tập sự chức Quản cơ cơ Trung chấn thuộc Trung quân. Ngày 12 tháng 4 năm Minh Mạng thứ 17 (1836), Nguyễn Viết Ngôn bị giáng một cấp do “để mất cảnh giác” trong vụ án thương dịch binh đinh (binh lính trông coi kho vựa) xâm phạm vào của kho[8]. Đến ngày mồng 2 tháng 2 năm Minh Mạng thứ 18 (1837), ông được khôi phục hoàn toàn phẩm hàm cũ và được triều đình sắc phong làm Minh Nghĩa Đô uý Quản cơ cơ Trung chấn thuộc Trung quân, trật chánh tứ phẩm: “…Trẫm nghĩ trong việc binh quân là việc lớn của đất nước, chăm chỉ trong việc giữ gìn sổ sách nơi quan trường. Nay ngươi là Trung quân Trung chấn cơ ở doanh cơ Nguyễn Viết Ngôn, là người mạnh mẽ, có tiếng tăm trong việc dùng gươm, mác, thuần thục các loại binh khí của việc quân, từng trải khó khăn trong quân nhu, được huấn luyện nắm vững binh khí, chuẩn xác trong việc thu phục quân địch, thận trọng suy tính mà lùi tiến khác nhau. Những thành quả tốt đẹp này là điều đáng được khen ngợi. Nay đặc chuẩn cho người được thăng nhận chức Minh Nghĩa Đô uý Quản cơ cơ Trung chấn thuộc Trung quân, trật chánh tứ phẩm. Trẫm ban ân điển tứ cho cáo mệnh! Ơn trạch thể hiện ở việc xa phục, lòng trung chính, dũng mãnh, sở quan có công lao trong việc giúp đỡ yên định mọi nơi[9].

 
2
Văn bằng cấp cho Nguyễn Viết Ngôn tập sự chức Quản cơ ở cơ Trung Chấn thuộc Trung quân ngày mồng 7 tháng Giêng năm Minh Mạng thứ 17 (1836)
 
Ngày 29 tháng 12 năm Minh Mạng thứ 18 (1837), Nguyễn Viết Ngôn được Binh bộ đề cử gia thưởng văn bằng kỷ lục một cấp cùng các quan địa phương, Hoàng tử, các vị công thân trở xuống đến quan văn từ Ngũ phẩm, quan võ từ Tứ phẩm trở lên, cùng với các viên Tri phủ, Tri châu, Tri huyện, Huyện thừa[10].

Mặc dù với số lượng tư liệu còn hạn chế chưa thể khắc hoạ hết được thân thế, cuộc đời và sự nghiệp của vị quan tứ phẩm Nguyễn Viết Ngôn, song có thể thấy, Nguyễn Viết Ngôn là người từng trải trong việc quân ngũ, từng lập nhiều công lao và được triều đình cử giữ nhiều chức vụ quan trọng ở khu vực biên ải phía Bắc nước ta. Ông làm quan đến trật chánh tứ phẩm, nhờ vào đức độ, tài nằng và những đóng góp, ông đã được triều đình nhà Nguyễn biểu dương, ghi nhận qua việc ban cấp sắc phong. Cùng với nhiều nhân sĩ khác của Hội An, Nguyễn Việt Ngôn đã góp phần làm phong phú thêm bề dày văn hóa, truyền thống quan trường của Hội An trong lịch sử.

 
Bảng kê một số tư liệu về vị quan tứ phẩm Nguyễn Viết Ngôn
hiện lưu trữ tại Trung tâm Bảo tồn Di sản Văn hóa Thế giới Hội An
 
STT Ngày tháng ban hành văn bản Nội dung trích yếu[11] Thể loại/ ký hiệu văn bản
1 Ngày 19 tháng 9 năm Minh Mạng thứ 3 (1822) Ban chiếu cho Nguyễn Viết Ngôn, nguyên được sắc thụ là Cai đội đội Hầu Lí thuộc Trung đồn Trung quân […] Tiền doanh Thần Sách quân, phục vụ công việc đã lâu ngày. Nay có quan Chưởng lãnh Đô thống chế là Nguyễn Văn Vân tâu xin, bèn đồng ý thuyên chuyển ngươi làm chức Cai đội đội 7 thuộc vệ Phấn Võ, tước Ngôn Đức hầu. Ngươi hãy dẫn dắt các biền binh trong đội để sai phái việc quân. Nếu như mệnh lệnh không nghiêm, sẽ có phép quân răn trị Chiếu. Ký hiệu số 21.6.10/3
2 Ngày 29 tháng 8 năm Minh Mạng thứ 9 (1828) Xét có Nguyễn Viết Ngôn, hiện là Cai đội đội 7 vệ Phấn Võ thuộc Tiền doanh Thần Sách quân, năm nay chuyên chủ việc xây dựng trấn thành Thanh Hoa, ngươi đã ra sức lo liệu, đến nay công việc đã hoàn thành tốt đẹp. Lại được được viên Trấn thủ thành ấy lập danh sách tâu lên, đồng thời bộ Binh lại tiến cử, kính tuân theo Thánh chỉ đồng ý thăng cho mỗi viên Kỉ lục một bậc. Kính theo đó, kính tuân hành việc cấp bằng Kỉ lục một bậc để khuyến khích công lao. Văn bằng. Ký hiệu số 21.6.10/4
3 Ngày mồng 2 tháng 4 năm Minh Mạng thứ 10 (1829) Ngày 23 tháng Giêng năm nay, kính tuân Thánh chỉ, trong đó có đoạn viết “ba đạo biền binh ở Trấn Ninh, Trấn Tĩnh, Trấn Định, lội suối trèo đèo, xung mạo la chướng, gian lao rất đáng thương xót. Nay ban cho các viên ở ba đạo ấy, từ chức Suất đội trở lên được thưởng mỗi người một văn bằng kỉ lục một bậc”. Kính theo đó, căn cứ theo danh sách […...] Cai đội đội 7 vệ Phấn Võ thuộc Tiền doanh Thần Sách quân, trước đã vào đạo Trấn […] thay việc trú ngụ phòng thủ. Kính tuân theo đó, nay cấp cho văn bằng kỉ lục một bậc. Văn bằng. Ký hiệu số 21.6.10/05
4 Ngày 3 tháng 9 năm Minh Mạng thứ (?) Tháng trước, bộ Binh đem biền binh các đạo đi tiễu trừ bọn thổ phỉ tại tỉnh Tuyên Quang, thu phục được đồn lũy Đại Đồng tại địa phận xã Lãnh Thủy. Thắng trận trở về, phân biệt công lao để nghị thưởng. Kính tuân Thánh chỉ đồng ý ban cấp văn bằng ghi công một bậc, đồng thời căn cứ theo bản tâu của viên quan Tổng đốc ba tỉnh Sơn Tây, Hưng Hóa, Tuyên Quang, tra xét tường tận thì biết là một trong các viên Suất đội tòng chinh lần này có Nguyễn Viết Ngôn. Vì thế hợp thức việc thi hành kính ban thưởng cho văn bằng ghi công một bậc. Văn bằng. ký hiệu số 21.6.10/06
5 Ngày 18 tháng 12 năm Minh Mạng thứ 15 (1834) Nay căn cứ vào tập tâu của các quan tỉnh Nghệ An, tra thấy việc đề cử viên Cai đội đội 7 vệ Phấn Võ thuộc Tiền doanh Thần Sách quân, tạm bổ sung vào chức Phó vệ úy vệ Diệu Võ thuộc Tả doanh. Ngày tháng này, kính tuân Thánh chỉ chuẩn y, kính theo đó, bản bộ thực hành việc cấp văn bằng, giao cho để phụng hành chức vụ. Phàm mọi việc phải tuân theo điển lệ mà thực thi. Văn bằng. ký hiệu số 21.6.10/07
6 Ngày mồng 7 tháng Giêng năm Minh Mạng thứ 17 (1836) Xét thấy bản tỉnh hiện nay đang thiếu một suất Quản cơ ở cơ Trung Chấn thuộc Trung quân, kính tuân Thánh chỉ viết “nay tạm bổ sung Phó vệ úy vệ Diệu Võ là Cai đội Nguyễn Viết Ngôn vào chức Phó quản cơ, vẫn cấp văn bằng tập sự chức Quản cơ, để đầy đủ các chức vụ. Khâm thử!”. Kính theo đó, thực hành việc cấp bằng tập sự chức Quản cơ của cơ ấy, quản lãnh tất thảy binh lính trong cơ, nghe theo sự sai phái của viên quan Lãnh binh. Đợi đến lúc mãn kì hạn tập sự, sẽ kính nhận văn bằng Thực thụ [tức văn bằng bổ nhiệm chính thức chức vụ]. Nếu như giữ chức không kính cẩn, sẽ có quân luật nghiêm trừng. Văn bằng. ký hiệu số 21.6.10/10
7 Ngày 12 tháng 4 năm Minh Mạng thứ 17 (1836) Xét có Nguyễn Viết Ngôn, hiện đang tập sự chức Quản cơ ở cơ Trung Chấn thuộc Trung quân, trước đã nhậm chức Cai đội, đồn trú phòng thủ phủ thành Diễn Châu [thuộc tỉnh Nghệ An], bất thời bỏ bê việc phòng bị, rốt cục liên quan đến vụ án thương dịch binh đinh [binh lính trông coi kho vựa] xâm phạm vào của kho. Đã được viên Tổng đốc An Tĩnh [Nghệ An - Hà Tĩnh] điều tra đệ trình lên, kính tuân Thánh chỉ có đoạn viết “để mất cảnh giác, […] quyền sung Phó vệ úy, nay là tập sự chức Quản cơ Nguyễn Viết Ngôn bị giáng một cấp, lưu nhậm [giữ lại để sử dụng]”. Kính theo đó, đình thần thực hành việc khâm cấp văn bằng cho giữ nguyên phẩm hàm, chịu giáng xuống một cấp, lưu nhậm. Văn bằng. ký hiệu số 21.6.10/08
8 Ngày mồng 2 tháng 2 năm Minh Mạng thứ 18 (1837) Xét có Nguyễn Viết Ngôn, giữ chức Quản cơ cơ Trung Chấn thuộc Trung quân, vào năm Minh Mệnh thứ 17 [1836] vì trong lúc trú phòng phủ thành Diễn Châu để mất cảnh giác, rốt cục liên quan đến vụ án thương dịch binh đinh xâm phạm vào của kho, bị giáng một cấp, lưu nhậm. Nay Binh bộ tuân theo Chiếu chỉ ban ân, tập hợp danh sách đề cử lên, lại kính tuân Thượng dụ trong đó có đoạn viết “nguyên bị giáng một cấp là Nguyễn Viết Ngôn, nay cho khai phục hoàn toàn. Khâm thử!”. Kính tuân theo đó, thực hành việc phụ cấp văn bằng khai phục hoàn toàn phẩm hàm cũ. Văn bằng. ký hiệu số 21.6.10/09
9 Ngày 29 tháng 12 năm Minh Mạng thứ 18 (1837) Ngày 28 tháng 11 năm này, kính tuân Ân chiếu trong đó có khoản viết “các quan viên bên ngoài Kinh thành [tức quan địa phương], kể từ Hoàng tử và các vị công thân trở xuống đến quan văn từ Ngũ phẩm, quan võ từ Tứ phẩm trở lên, cùng với các viên Tri phủ, Tri châu, Tri huyện, Huyện thừa, mỗi viên đều được gia thưởng một cấp”. Kính tuân theo đó, Binh bộ đề cử danh sách gia cấp lại có tên của Quản cơ cơ Trung Chấn thuộc Trung quân là Nguyễn Viết Ngôn, lại kính phụng Thánh chỉ viết “hãy tuân theo Ân chiếu mà thu xếp cho phù hợp. Khâm thử!”. Kính tuân theo đó, thực hành việc khâm cấp gia thưởng một cấp. Văn bằng. ký hiệu số 21.6.10/11
10 Ngày 15 tháng 9 năm Duy Tân thứ 4 (1910) Nay căn cứ theo bẩm trình của Nguyễn Văn Thành ở xã Cẩm Phố thuộc tỉnh Quảng Nam rằng tổ bá [tức anh trai của ông nội của mình là Nguyễn Viết Ngôn], nguyên được sắc thụ là Quản cơ cơ Trung chấn thuộc Trung quân, vốn đã được phong 2 đạo sắc (1 đạo phong chức Phó quản cơ ngày 23 tháng 11 năm Minh Mạng thứ 16 - 1835, 1 đạo phong chức Quản cơ ngày mồng 2 tháng 2 năm Minh Mạng thứ 18 - 1837), kính cẩn cất giữ tại gia đình, chẳng may bị lửa cháy thủng, bèn hội với lí dịch hương hào làm chứng, bẩm xin cấp lại sắc văn. Bản bộ căn cứ theo phẩm hàm được phong lần sau cùng (tức hàm Quản cơ) để cấp lại 1 đạo văn bằng, giao cho cất giữ. Còn niên hiệu sẽ đợi Thánh chỉ ban xuống rồi điền vào sau (?) Vì vậy ban cho tờ tuân cấp để chấp chiếu. Tờ tuân cấp này phải giao đến tay người nhận. Tờ tuần cấp. Ký hiệu số 21.6.10/1
11 Ngày 17 tháng 9 năm Duy Tân thứ 4 (1910) Dân hạng Lão nhiêu là Nguyễn Văn Thành (64 tuổi) ở xã Cẩm Phố, tổng Phú Triêm Hạ, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, lạy bẩm về việc xin được đổi hạng. Nay chiếu theo lệ định, trong đó có nói một khoản rằng vị quan viên nào mà thiếu người phụng thờ, đồng ý cho sử dụng con cái của anh em để lập làm thừa tự. Nhân có tổ bá của thảo dân là Nguyễn Viết Ngôn, nguyên được sắc thụ là Quản cơ cơ Trung Chấn thuộc Trung quân, không có con cái, thảo dân là người cháu ruột của bậc cố thần. Từ trước đến nay chưa có người nào thờ tự, lạnh lẽo khói hương. Nay thảo dân tuổi đã ngoài 60, thấy việc sắc văn ấy không ai gìn giữ, lòng không thể tự yên. Vậy khẩn xin được ban cho thảo dân đổi sang hạng Nhiêu ấm để bổ sung vào việc thờ cúng thường xuyên, có đủ cả chức sắc bản xã cùng thân thuộc bản tộc kí tên xác nhận. Vì thế dám cúi xin các vị đại nhân ở Binh bộ xem xét phê chuẩn để được đổi hạng. Muôn lần đội ơn, nay lạy bẩm. Đơn xin. Ký hiệu số 21.6.10/2
 
[1] Trung tâm Quản lý Bảo tồn Di sản Văn hóa Hội An (2021), Di sản Hán Nôm - Tập 6: Sắc phong, Nxb. Đà Nẵng, tr.157.
[2] Trong đó, 2 bản sao sắc phong được ghi chép trong bộ tư liệu Quảng Nam tỉnh tạp biên do Viện Viễn Đông bác cổ và Hội Văn hóa dân gian Đông Dương thực hiện vào đầu thế kỷ XX. Bản sao lưu tại Trung tâm Bảo tồn Di sản Văn hóa Thế giới Hội An.
[3] Tờ tuần cấp cho Nguyễn Văn Thành (cháu gọi Nguyễn Viết Ngôn là tổ bá [anh trai của ông nội]) về việc xin cấp lại 2 bản sắc phong trước đây của Nguyễn Viết Ngôn do bị lửa cháy, ký hiệu số 21.6.10/1. Đơn xin của Nguyễn Văn Thành về việc xin được xếp hạng Nhiêu ấm để được thờ phụng tổ bá ngày 17 tháng 9 năm Duy Tân thứ 4 (1910), ký hiệu số 21.6.10/2.
[4] Hiện đang lưu giữ tại nhà thờ tộc Nguyễn Văn (phường Hội An).
[5] Chiếu ngày 19 tháng 9 năm Minh Mạng thứ 3 (1822), ký hiệu số 21.6.10/3; văn bằng ngày 29 tháng 8 năm Minh Mạng thứ 9 (1828), ký hiệu số 21.6.10/4; văn bằng ngày mồng 2 tháng 4 năm Minh Mạng thứ 10 (1829), ký hiệu số 21.6.10/5; văn bằng ngày 3 tháng 9 năm Minh Mạng thứ (?), ký hiệu số 21.6.10/6.
[6] Văn bằng ngày 18 tháng 12 năm Minh Mạng thứ 15 (1834), ký hiệu số 21.6.10/07.
[7] Sắc phong ngày 23 tháng 11 năm Minh Mạng thứ 16 (1835), Trung tâm Quản lý Bảo tồn Di sản Văn hóa Hội An (2021), sách đã dẫn, tr.156.
[8] Văn bằng ngày mồng 7 tháng Giêng, ký hiệu số 21.6.10/10; văn bằng ngày 12 tháng 4 năm Minh Mạng thứ 17 (1836), ký hiệu số 21.6.10/08; văn bằng ngày mồng 2 tháng 2 năm Minh Mạng thứ 18 (1837), ký hiệu số 21.6.10/09.
[9] Sắc phong ngày mồng 2 tháng 2 năm Minh Mạng thứ 18 (1837), Trung tâm Quản lý Bảo tồn Di sản Văn hóa Hội An (2021), sách đã dẫn, tr.157.
[10] Văn bằng ngày 29 tháng 12 năm Minh Mạng thứ 18 (1837), ký hiệu số 21.6.10/11.
[11] Phần nội dung trích yếu do CN. Lê Thị Lưu - Phòng NCKH thuộc Trung tâm Bảo tồn Di sản Văn hoá Thế giới Hội An dịch nghĩa.

Tác giả: Nguyễn Văn Thịnh

Nguồn tin: Trung tâm Bảo tồn Di sản Văn hóa Thế giới Hội An

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết
liên kết web
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây