Trước tác thơ, văn Hán Nôm lưu giữ tại nhà thờ tộc Nguyễn Tường

Chủ nhật - 12/10/2025 23:39
Khi nói đến các tác phẩm văn học nghệ thuật, không thể không kể đến các trước tác thơ văn, đặc biệt là trước tác được viết bằng chữ Hán, chữ Nôm. Trong nguồn tài liệu Hán Nôm được lưu giữ tại nhà thờ tộc Nguyễn Tường, gồm nhiều thể loại như văn khế, gia phả, văn bằng, liễn đối, các văn bản hành chính, văn tế… Trong đó thể loại văn, thơ tuy chiếm số lượng nhỏ so với nguồn tài liệu Hán Nôm hiện có nhưng có nhiều giá trị về văn học nghệ thuật.
     Qua thống kê sơ bộ, có ít nhất 7 bài thơ trong tư liệu Hán Nôm lưu giữ tại nhà thờ tộc Nguyễn Tường. Những bài thơ này đa số theo thể thơ Đường luật như: thất ngôn bát cú, ngũ ngôn tứ tuyệt… với những đề tài liên quan đến vấn đề lịch sử, giáo dục, địa lý,  phong tục của con người, thể hiện mối quan hệ giữa con người với con người, con người với sự cảnh, giữa hoàn cảnh và thời đại, đến những ca từ nói đến vận mệnh của đất nước, quốc gia. Văn học thời kỳ nhà Nguyễn có điều kiện phát triển thuận lợi, những thi sĩ đều đã tiếp cận tư tưởng Nho giáo từ thuở nhỏ, được học hành và chịu sự quản lý từ các quan chức, thầy đồ dạy học có tiếng tăm và tài đức tại các cơ sở giáo dục do triều đình mở. Việc đào tạo có quy cũ, bài bản về học vấn đã tạo ra một số lượng lớn các sĩ tử, quan lại có niềm đam mê mãnh liệt với thơ ca, am hiểu lịch sử, quyền chính, chữ nghĩa, học rộng hiểu sâu, tài năng văn chương được phát triển mạnh mẽ. Thế nên giai đoạn này đã để lại cho hậu thế sau một khối lượng văn chương đồ sộ trong sự nghiệp phát triển văn hóa đất nước.
 
han nam
Bài thơ "Tân xuân" (Xuân Mới) của Nguyễn Tường Phổ

     Nguyễn Tường Phổ đỗ tiến sĩ kỳ thi Ân khoa, giữ chức Hàn Lâm viện Biên tu. Trong suốt quá trình làm quan của mình, ông nổi tiếng là người thông minh, khẳng khái, có ý chí, hiểu biết về chức trách, chuyên môn, và có nhiều cống hiến trong việc xây dựng, phò tá vương triều Nguyễn. Bên cạnh đó ông còn là người am tường Nho giáo, tinh thông Kinh thi, lễ nghĩa, Bách gia chư tử và yêu thích sáng tác thơ ca “mỗi ngày ông cùng các sĩ tử giảng tập say sưa, với tình thơ - chén rượu, lấy hiếu - lễ - trung - tín dạy dỗ con cháu, đó chính là lo vun trồng gốc rễ của kẻ sĩ tử”, ông lấy tên hiệu là Thứ Trai, và cũng đặt tên cho tập thơ của mình là “Thứ Trai thi tập”. Trước tác thơ ca Hán Nôm của ông thường theo thể loại ngâm vịnh, tống tặng, từ khúc… với nội dung gắn liền với hiện thực đời sống, xã hội, đôi khi là những câu chữ ghi lại nét đẹp của một vùng đất, sự thay đổi, chuyển vận của thời tiết trong khí trời thổn thức nên thơ như các bài Kỷ Mão nguyên nhật (Ngày đầu xuân Kỷ Mão), Tân xuân (Xuân mới), Trung thu tiền nhất dạ (Đêm trước tiết Trung thu), Lai Viễn kiều tây xuân phiếm điếu đĩnh, hồi vọng Hội An phố thư hoài (Thả thuyền câu bên phía Tây cầu Lai Viễn, nhìn về phố Hội An viết nỗi niềm)… Đây là những bài thơ miêu tả về cảnh sắc quê hương, đất nước, tức sự về danh thắng địa phương, qua đó gửi gắm lý tưởng, bộc lộ tâm tư của tác giả với chốn quan trường. Hay những bài ứng chế ca ngợi về đức hạnh, việc kính trời lo dân của vua, cầu cho mưa thuận gió hòa, nhân dân ấm no… thể hiện tinh hoa đạo lý nhằm mục đích “kính thiên, pháp địa, cần chính, ái dân” với nỗi lòng, chí hướng của bậc quân vương với nước, với dân của mình.

     Những áng thơ mừng vui khi bạn bè đỗ các kỳ thi khoa, thì thơ của Nguyễn Tường Phổ trong bài Mừng bạn đồng niên Hoàng Kim Minh dự trúng phúc trạch, đã sử dụng nhiều hình ảnh đối lập, so sánh giữa hình ảnh thiên nhiên như “gió với cỏ, lửa nóng với vàng ròng” để thể hiện tinh thần tinh khiết, không vướng tạp chất bụi trần, vươn lên mọi nghịch cảnh của cuộc sống, ý chí để chứng tỏ được giá trị thực sự của mình. Bên cạnh đó, tác giả cũng đã sử dụng hình ảnh hoa quế tỏa hương, đây là hình ảnh biểu tượng cho lòng kiên định và ý chí vươn lên mạnh mẽ, thể hiện cho tình bạn chân thành và lòng trung thực, đây cũng là hình ảnh nghệ thuật được sử dụng nhiều trong thể thơ Đường luật.

     Thể loại đặc sắc trong văn học nghệ thuật trung đại còn có thể thơ tống tặng (hay còn gọi là tống biệt) đó là những cảm hoài về nỗi niềm đau xót, thương cảm cho những mất mát của bạn đồng niên, đó là những dòng thơ chứa đựng thông điệp về ngôn hành, đức độ, công huân, ca ngợi đức tính tốt đẹp của người đã mất xứng đáng với tấm gương cho hậu thế noi theo, với những giá trị truyền thống mang nặng tính đạo lý về tình nghĩa, sự kính trọng cũng như với ngôn từ giàu cảm xúc đã khơi gợi cho người đọc lòng tiếc thương vô hạn của tác giả với những ca từ than ôi, ai oán khó lòng mà tỏ bày.

     Góp phần dựng nên diện mạo, sắc thái đa dạng trong tư liệu Hán Nôm nhà thờ tộc Nguyễn Tường là các trước tác của vị vua triều Nguyễn như vua Thiệu Trị, Tự Đức hay của các vị thân vương, các vị quan đầu triều như Tùng Thiện quốc công, Thận Minh Miên Thẩm, Phạm Phú Thứ... Bài thơ Thanh khiết (Khuyên người làm quan) do vua Tự Đức thủ bút, soạn thảo đề tặng Nguyễn Tường Phổ với nội dung khuyên răn người làm quan giữ được sự thanh liêm, cẩn thận, cần mẫn, đừng để việc riêng tư làm ràng buộc chính mình, không nhận của cải để cầu thân, coi trọng chữ liêm chính trong sự nghiệp của mình, với giá trị nội dung ẩn chứng những thông điệp sâu sắc về xã hội, con người, khơi gợi cho người đọc những suy tư về ý nghĩa cuộc sống … Đây không chỉ là nỗi niềm tỏ bày cho riêng cá nhân một người, mà chính là nỗi lòng, là chí hướng của một bậc quân vương đối với các thần tử của mình, mọi sự ví von trong câu chữ được so với gió mùa xuân, với cây lá xuân, trong đó mùa xuân chính là thể hiện cho sự tươi mới, sự thanh tao nho nhã, và niềm hi vọng, cũng như gửi gắm những tâm tư, nguyện vọng đối với các quan lại trong việc giữ trọn lòng thành tín, phò tá quân vương xây dựng nước nhà. Trong bài Tử nê thiên chiếu (Trời chiếu bùn đỏ) của Tùng Thiện quốc công Thận Minh với một cách nói ẩn dụ về thời thế, nghịch cảnh, giữa không gian hoang phế có như thế nào, thì cũng sẽ có ánh sáng, sự vinh quanh nơi vàng son, long trì soi rọi, sự tươi mới của gió xuân, những hình ảnh đối lập nhau trong bài thơ đã gợi mở về sự hữu hạn, sức mạnh vươn lên của con người dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào.

     Ngoài thơ ca mang đậm dấu ấn quan trường, hiện thực, tình cảm đời sống, những bài ứng chế đầy linh hoạt và tài năng đối đáp với nét thi vị cuộc sống tươi mới mang tư liệu về văn: khá đa dạng với nhiều thể loại, ngoài mang tính chất văn chương, những tư liệu này còn đề cập đến các lĩnh vực khác nhau về lịch sử, khoa cử, phong tục dã sử, hay huyền tích dân gian.

     Lần giở những trang Di sản tư liệu Hán Nôm nhà thờ tộc Nguyễn Tường, từ những tiếp cận ở nhiều góc độ về sự nghiệp quan trường và cuộc đời, chúng ta có thể tìm hiểu và cảm nhận sau sắc hơn về tư tưởng quan điểm cũng như tâm tư, tình cảm mà các tác giả đã gửi gắm qua từng tác phẩm. Mỗi một bài thơ là một tâm tư được gửi gắm, mỗi một câu thơ là một nét đẹp cảm khái về tình cảm con người, sự mơ ước cho cuộc sống an yên, những nét đẹp của hiện thực đã vẽ nên những nét thơ trong sáng nhưng mang đầy hoài bão của thi nhân. Tuy nhiên, nhìn chung, những tác phẩm văn, thơ trong tư liệu nhà thờ tộc Nguyễn Tường nói riêng, thời Nguyễn nói chung được viết nên mang đậm những quan niệm Nho giáo về tam cương, ngũ thường, đức trị, nhân trị, những tu tâm, dưỡng tính,… nội dung xoay quanh việc chuyển tải những nội dung thuyết hóa, giáo huấn vào vần thơ để dễ dàng truyền tải thông điệp đến tất cả mọi người. Tuy nhiên, với góc nhìn từ Di sản Hán Nôm ở Hội An, chúng không chỉ là những chủ đề riêng biệt, mà sự kết nối tâm giao giữa ngữ nghĩa, cảm xúc và hoàn cảnh mà bậc thi nhân đã thể hiện trong từng tác phẩm.

Tác giả: Ngoc Tran Quang

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết
liên kết web
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây