Trong suốt thời kỳ nhà Nguyễn, việc xây dựng, tu bổ đường sá được triều đình đặc biệt quan tâm. Hệ thống giao thông đường bộ được xem là “mạch máu” nối liền Kinh đô với các vùng miền. Để đảm bảo đường sá thông suốt từ Bắc vào Nam, nhà nước thường xuyên huy động nhân lực, vật lực từ các địa phương trong cả nước.
Truyền của Công đồng quan sai Chấn Thanh hầu, Mưu Trung bá chuyển đá về Kinh ngày 29 tháng 3 năm Gia Long thứ 4 (1805)
Những tư liệu Châu bản triều Nguyễn (văn bản truyền, tấu trình) còn lưu lại cho thấy triều đình đã nhiều lần huy động quân lính, ghe thuyền và cả thương nhân tham gia vào hoạt động khai thác, trưng thu, mua bán và vận chuyển đá cũng như huy động nhân lực xây dựng, tu bổ đường sá ở Hội An, Quảng Nam. Các tư liệu này đã phản ánh rõ cách thức điều hành, tổ chức quản trị của nhà nước và vai trò Hội An, Quảng Nam trong công cuộc phát triển hạ tầng giao thông của Việt Nam dưới triều Nguyễn.
Theo tờ truyền Công đồng năm Gia Long thứ 4 (1805) về việc chọn chở đá lát đường tại La Qua và Hội An cho biết, vào ngày 18 tháng 3 Công đồng quan sai Thần sách quân Trung doanh Tín uy vệ Phó vệ uý Khâm sai thuộc Cơ nội Cai cơ Cẩn Ngọc hầu phụng mệnh dẫn 500 binh lính thuộc Ngũ doanh và 25 chiếc ghe, đến đồn La Qua thuộc dinh Quảng Nam để chọn và vận chuyển đá lát đường. Đá được tuyển lựa kỹ lưỡng theo đúng quy cách về số lượng, kích thước và chất lượng, sau đó chuyển về Kinh để phụng nạp.
Nếu nguồn đá ở La Qua chưa đủ, quan viên địa phương tập trung đến phố Hội An để chọn đá lát đường hoặc có thể “mua thêm tại các đường phố Hội An cho đủ số lượng”. Điều này cho thấy Hội An không chỉ là thương cảng quan trọng mà còn là nơi cung ứng vật liệu xây dựng thiết yếu cho triều đình.
Để bảo đảm tính chính xác, việc đo đạc đường sá được giao cho Ký lục Hậu Đức Hầu ở doanh Quảng Nam thực hiện, sau đó biên chép tường tận giao cho Cẩn Ngọc hầu đệ nạp tâu lên.
Lại cho phép căn cứ theo thực số viên quân đã ghi chép tại Bộ Hộ để đến kỳ nhận công lương tại địa hạt Quảng Nam cho viên quân chi dùng cho tiện. Công việc này thể hiện rõ tính chặt chẽ, có tổ chức trong việc quản lý nhân công và tài chính của nhà nước.
Đến ngày 29 tháng 3 năm Gia Long thứ 4 (1805), theo tờ truyền của Công đồng quan giao cho Khâm sai thuộc Nội Chưởng cơ Chấn Thanh hầu, quản tàu đồng Phượng Phi phụ trách việc vận chuyển đá về Kinh. Văn bản chỉ rõ rằng những “đá diễn tàu ngày trước là loại đá vô dụng” cần phải bỏ đi, thay vào đó nhận lãnh loại đá lát đường do quan Công đường Quảng Nam cung ứng. Đây là “công việc khẩn cấp”, nên binh lính phải nhanh chóng khuân vác, chất đá lên tàu để đưa về Kinh.
Đồng thời, Công đồng cũng sai Mưu Trung Bá mang bản truyền đến Cửa Hàn (Đà Nẵng ngày nay) để phối hợp. Sau khi hoàn tất việc vận chuyển, Chấn Thanh hầu và quân lính trở lại La Qua và Hội An để tiếp tục lấy đá lát đường tại hai địa phương. Những phiến đá ấy phải được ghi chép cẩn thận về số lượng, kích thước, rồi báo cáo lên triều đình. Trên hành trình, triều đình cho phép huy động cả trạm dịch, võng kiệu và phu trạm để phục vụ việc chuyển đá về Kinh. Điều này cho thấy sự phối hợp chặt chẽ giữa hệ thống quân sự và dân sự nhằm bảo đảm công việc vận chuyển vật liệu.
Dưới thời vua Minh Mạng, việc nâng cấp, tu bổ đường sá được chú trọng quan tâm, nhất là các con đường huyết mạch của quốc gia. Năm Minh Mạng thứ 13 (1832), vua Minh Mạng ban dụ nhấn mạnh tầm quan trọng của đường cái quan. Chỉ dụ nêu rõ việc có nhiều đoạn đường qua núi hiểm trở, dân đi lại khó khăn, vì vậy cần phải mở rộng từ 4 - 5 thước, phá bỏ đá chắn đường, đắp đất vào chỗ trũng sâu, thậm chí xây thành bậc để bằng phẳng. Việc thi công được giao cho các phủ, huyện huy động dân phu, trả công bằng tiền và gạo, lại cho phép kéo dài thời hạn để dân đỡ khổ cực. Đây là minh chứng cho chính sách vừa cứng rắn vừa linh hoạt của triều Nguyễn, một mặt buộc phải hoàn thành công trình huyết mạch quan trọng, mặt khác cũng lưu tâm đến sinh kế của dân: “… Đường cái quan nhiều chỗ núi cao, lính trạm leo trèo, nhân dân đi lại, có nhiều sự khó khăn trở ngại, nên theo địa thế sửa chữa để tiện đi lại. Vậy truyền lệnh cho các quan địa phương xét xem địa phận hạt mình, chỗ nào có đá lớn ngăn trở, thì đốt cho nát phá bỏ đi, cốt rộng từ 4 - 5 thước trở lên, đủ đi lại được; chỗ nào vì nước mưa lụt chảy xói, lâu ngày trũng sâu, thì đá lấp đầy, hoặc xây thành bậc, cho được bằng phẳng, rồi uỷ cho phủ huyện thuê dân làm, trả công ưu hậu bằng tiền và gạo, rộng cho thời hạn, cốt được thành công để ích lợi lâu dài”.

Trang đầu Tấu của Bộ Công về việc đắp đường tỉnh thành Hội An và huyện Hoà Vang tỉnh Quảng Nam, Đà Nẵng ngày 26 tháng 11 năm Thành Thái thứ 6 (1894)
Đến thời vua Tự Đức, triều đình cho làm đường cái quan ở Quảng Nam: “Tháng 5, năm Tự Đức thứ 11 (1858) cho đắp đường cái quan ở bên sông Vĩnh Điện, tỉnh Quảng Nam (lấy 600 người dân trong tỉnh làm, cấp cho mỗi người 1 ngày tiền 20 đồng, gạo 1 bát, hẹn làm 1 tháng xong)”. Tháng 12 sai Nguyễn Hiên, Trần Đình Túc đóng ở 2 đồn Câu Đê, Hóa Ổ đánh để mở đường cái quan đồn Chân Sảng ải Hải Vân.
Năm Tự Đức thứ 21 (1868), bản tấu ngày 6 tháng Giêng của Bộ Hộ cho phép thương nhân người Thanh đang buôn bán tại phố Hội An là Âu Dương Vinh được phép khai thác khoáng sản tại vùng núi Quảng Nam. Trong quá trình định cư, buôn bán tại Hội An, nhận thấy vùng núi Quảng Nam có nhiều “kim khí” như vàng, bạc, đồng, thiếc, đá tiêu, lưu huỳnh, than,… nên tình nguyện tự bỏ vốn để tìm thăm dò, thuê nhân công khai thác và chịu nộp thuế cho nhà nước.
Theo đó, triều đình căn cứ theo bản tấu năm Tự Đức thứ 18 (1865), tiền lệ trước đây triều đình đã cho phép Doanh điền sứ Trần Đình Túc được khai khẩn khoáng sản, từ đó chấp thuận cho Âu Dương Vinh được phép tiến hành khai thác “kim khí”. Kết quả khai thác, việc nạp thuế được giao cho tỉnh kiểm tra thực tế mà trình báo lên. Có thể thấy Hội An, Quảng Nam không chỉ cung cấp đá xây dựng mà còn là cửa ngõ cho hoạt động khai thác khoáng sản, có sự tham gia của thương nhân nước ngoài dưới sự kiểm soát của triều đình.
Sang cuối thế kỷ XIX, trong bối cảnh chịu ảnh hưởng từ chế độ bảo hộ Pháp, công việc làm đường ở Quảng Nam vẫn tiếp tục thực hiện. Ngày 26 tháng 11 năm Thành Thái thứ 6 (1894), Bộ Công tâu trình việc đắp đường từ tỉnh thành (La Qua) đến Hội An và huyện Hòa Vang, từ phía trước Nha quan phòng biển đến Thanh Khê, Liên Chiểu, Phú Thượng đến chợ Tuý Loan.
Do đang trong mùa nông vụ thu hoạch, dân cư 2 phủ huyện Điện Bàn, Hòa Vang lại thưa thớt nên quan tỉnh Nguyễn Đảng xin tạm hoãn huy động dân phu để tránh ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất của nhân dân. Đến hạ tuần trong tháng sẽ huy động nhân lực từ 6 phủ, huyện để đắp đường cao 2 thước, rộng 1 trượng, san lấp chỗ trũng, chồng đá lấp hố. Triều đình giao cho tỉnh xem xét phần nào thuộc công vụ thì dùng ngân sách, chiếu theo lệ mà thực hiện, phần nào thuộc về việc dân sự thì huy động sức dân đóng góp.
Việc huy động nhân lực, tài lực của dân để thực hiện các công trình giao thông là một chính sách hợp lý của triều đình nhà Nguyễn qua đó góp phần giảm tải ngân sách cho nhà nước nhưng vẫn đảm bảo đời sống của nhân dân.
Qua các tư liệu cho thấy, Hội An, Quảng Nam giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc khai thác, buôn bán, cung ứng vật liệu cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ dưới triều Nguyễn. Ngoài lực lượng quan quân, triều đình còn khuyến khích thương nhân tham gia khai thác tài đá cùng các tài nguyên khoáng sản. Việc đắp đường, mở mang giao thông không chỉ phục vụ nhu cầu quân sự, đời sống dân sinh mà còn thúc đẩy thương mại, gắn kết vùng miền trong cả nước. Từ những bản tấu, truyền về việc trưng thu, mua bán, vận chuyển đá dưới thời Gia Long, đến chính sách khai mỏ thời Tự Đức và công cuộc đắp đường dưới thời Thành Thái, tất cả đã thể hiện vai trò, dấu ấn rõ nét của Hội An, Quảng Nam trong công cuộc xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông, kiến thiết quốc gia.
Tài liệu trích dẫn:
Trung tâm Quản lý Bảo tồn Di sản Văn hóa Hội An (2021), Hội An qua Châu bản triều Nguyễn, Nxb Đà Nẵng, tr.20.
Trung tâm Quản lý Bảo tồn Di sản Văn hóa Hội An, sách đã dẫn, tr.27.
Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam thực lục, tập 3, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr.386.
Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam thực lục, tập 7, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr.558.
Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), sách đã dẫn, tr.640.
Đá tiêu là loại đá bazan/đá núi lửa đen xám, chắc, bền, thường được dùng trong các công trình kiến trúc dưới thời Nguyễn.
Trung tâm Quản lý Bảo tồn Di sản Văn hóa Hội An, sách đã dẫn, tr.98 - 99.
Trung tâm Quản lý Bảo tồn Di sản Văn hóa Hội An, sách đã dẫn, tr.201 - 202.