Đồ án trang trí tại các án thờ trong di tích thờ Ngũ Hành Tiên Nương ở Hội An

Thứ hai - 09/06/2025 05:19
Ngũ Hành Tiên Nương là danh xưng chung cho 5 vị nữ thần, bao gồm: Kim Đức Thánh Phi, Mộc Đức Thánh Phi, Thủy Đức Thánh Phi, Hỏa Đức Thánh Phi và Thổ Đức Thánh Phi. Ngũ Hành Tiên Nương được triều đình nhà Nguyễn gia phong mỹ tự là: “Tư hóa Mặc vận Thuận thành Hòa tự Tư nguyên Trang huy Dực bảo Trung hưng thượng đẳng thần”. Ngũ Hành trong quan niệm dân gian liên quan tới mọi mặt đời sống con người, việc thờ Ngũ Hành với ước nguyện cầu mong được thần phù hộ, độ trì trong việc làm ăn, cầu sức khỏe, may mắn trong cuộc sống thường nhật.
     Tại Hội An, trước đây hầu như các xóm, làng đều có miếu thờ Ngũ Hành Tiên Nương, song do nhiều yếu tố tác động mà ngày nay không ít miếu thờ đã bị hư hoại, mất đi. Hiện nay, các công trình tín ngưỡng thờ Ngũ Hành Tiên Nương ở Hội An với quy mô, kiểu dáng kiến trúc, bài trí thờ tự cũng có nhiều điểm khác nhau. Theo thống kê hiện nay có 17 di tích là miếu thờ Ngũ Hành Tiên Nương[1]. Bên cạnh đó, có một số ngôi miếu thờ Ngũ Hành Tiên Nương tọa lạc trong một cụm các ngôi miếu như: miếu Ngũ Hành trong khu miếu ấp Thanh Chiếm (phường Thanh Hà), miếu Ngũ Hành trong cụm lăng Năm Sở (phường Cẩm Nam), miếu Ngũ Hành trong khuôn viên đình ấp Trường Lệ (phường Cẩm Châu), miếu Ngũ Hành thuộc khu miếu ấp Bàu Súng (phường Thanh Hà)… Tại một số ngôi chùa có miếu thờ Ngũ Hành như chùa Vạn Đức, chùa Phước Lâm, chùa Hải Tạng, chùa Chúc Thánh, chùa Ông Tạng (Thiên Đức Tự). Hầu hết các di tích này được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, trải qua thời gian với nhiều yếu tố tác động, các ngôi miếu đã có sự thay đổi về hình thức kiến trúc, đồ án trang trí. Trong bài viết này xin giới thiệu về những đồ án trang trí tại các án thờ trong các di tích thờ Ngũ Hành Tiên Nương (thiết chế đơn lẻ) ở Hội An hiện nay.

     Đồ án trang trí tại án thờ tự trong không gian tiền đường

     Trong tiền đường các miếu thờ Ngũ Hành Tiên Nương thường bố trí hai bàn thờ (trừ trường hợp miếu Trà Quân bố trí 04 bàn thờ), chủ thể thờ tự là Tiền hiền (hoặc Tiền vãng), Hậu hiền (hoặc Hậu vãng), một số ít chủ thể thờ tự là Tả ban, Hữu ban hoặc chỉ đề chữ 褔 (Phúc), 祿 (Lộc), hay chỉ vẽ đồ án trang trí (không rõ chủ thể thờ tự). Khám thờ thường được đúc bằng vữa hoặc vẽ màu hình khám thờ trên tường, trán khám thờ trang trí đồ án phổ biến với các đồ án “lưỡng long chầu nhật”, “tứ linh chầu nhật” (hoặc “tứ linh chầu lưỡng nghi”). Thân khám thờ thường vẽ màu các cụm mây, diềm chia thành các ô hộc trang trí các đồ án thuộc bát bửu, đồ án hoa dây lá, “mai điểu”, hoa sen, trái đào, trái lựu, “rùa đội hạc”. Quần bàn thường trang trí các đồ án “phụng vũ”, “mai điểu”, “tùng lộc”, một số ít trang trí đồ án chữ 夀 (Thọ), 祿 (Lộc).

     - Miếu Ngũ Hành ấp Sơn Đông: Tiền đường bố trí 2 bàn thờ Tiền vãng và Hậu vãng; quần bàn hai bàn thờ trang trí giống nhau cùng chủ đề “phụng vũ” ở trung tâm quần bàn, bốn góc là đồ án dơi, diềm trên trang trí hoa mẫu đơn và hồi văn. Trán hai khám thờ cùng trang trí đồ án “tứ linh chầu lưỡng nghi” thông qua kỹ thuật vẽ màu; phần đế vẽ kiểu chân quỳ, hai trụ thân khám thờ vẽ màu các cụm mây, đầu trụ vẽ hoa sen. Diềm trong khám thờ hai bên tương đối giống nhau, chỉ khác ở ô hộc trung tâm (bàn thờ Tiền vãng trang trí đồ án thoi sách và bút lông; bàn thờ Hậu vãng trang trí đồ án cuốn thư), ô hộc hai bên diềm trên cùng trang trí đồ án chữ 夀 (Thọ) tròn kết hợp cành lá cây cách điệu; diềm hai bên trang trí đồ án “rùa đội hạc”.

 
Không gian thờ tự miếu Ngũ Hành Trà Quế
Không gian thờ tự miếu Ngũ Hành Trà Quế
 
     - Miếu Ngũ Hành Trà Quế: Tiền đường bố trí 2 bàn thờ Âm linh và Tiền hiền, kiểu dáng và đồ án trang trí hai bàn thờ này gần như tương đồng, chỉ khác ở một số đồ án bát bửu. Trán khám thờ được tạo hình dạng cuốn thư, bề mặt trang trí “tứ linh chầu mặt trời”, bên dưới trang trí chùm lựu; hai trụ thân khám dạng khối tròn, bề mặt đắp nổi vẽ màu các cụm mây, đầu trụ đắp nổi hoa sen. Diềm lòng trong khám thờ được chia thành 3 ô hộc, ô trung tâm vẽ cành hoa cúc, ô bên trái trang trí gậy ngọc như ý và dải lụa, ô bên phải vẽ cây phất trần và dải lụa; đầu ô hộc diềm hai bên đắp nổi hoa thị. Điểm khác biệt ở khám thờ Tiền hiền với Âm linh ở vị trí ô hộc diềm trên khám thờ, ô chính giữa đắp nổi vẽ màu hoa mẫu đơn, ô bên trái đắp nổi vẽ màu trái bầu hồ lô, ô bên phải đắp nổi vẽ màu cây quạt lông vũ. Quần bàn cả hai bàn thờ đều cùng trang trí hình rồng ở trung tâm, hai góc trên vẽ màu hình chùm đào.

     - Miếu Trà Quân: Tiền đường bố trí 4 bàn thờ, bàn thờ sát tường biên trái đề chữ 褔 (Phúc), quần bàn trang trí đồ án “long mã phụ thoi sách” ở trung tâm, hai góc trên vẽ màu hoa dây lá; khám thờ đắp nổi bằng vữa, phần đế đắp nổi dạng chân quỳ, trán khám thờ vẽ màu đồ án “lưỡng long chầu lưỡng nghi”, bốn góc xung quanh chữ 褔 (Phúc) trang trí dây lá. Sát tường biên bên phải bố trí án thờ đề chữ 夀 (Thọ), kiểu thức và đồ án trang trí gần như tương đồng, chỉ khác ở vị trí trung tâm quần bàn, thay vì đồ án “long mã phụ thoi sách” thì đồ án được sử dụng là “quy đội thoi sách”. Gian bên trái là nơi bố trí bàn thờ Tiền vãng, trung tâm quần bàn vẽ màu đồ án rồng, bốn góc trang trí hình con dơi; khám thờ được đúc bằng vữa, đế tạo hình chân quỳ, trán khám thờ trang trí đồ án “tứ linh chầu lưỡng nghi”, hai cạnh ngoài trang trí dây lá; hai trụ thân khám thờ dạng tròn, thân trang trí các cụm mây, đầu trụ trang trí hoa sen; diềm ngoài cùng thân khám thờ vẽ đồ án hoa lá; diềm trên được chia thành 3 ô hộc, ô trung tâm trang trí đồ án bát bửu (bầu hồ lô, phất trần, dải lụa), ô bên trái “mai điểu”, ô bên phải “tùng lộc”, diềm bên trái trang trí khóm trúc, diềm bên phải hoa mai; bao quanh chữ Tiền vãng vẽ màu đồ án các cụm mây, hai góc ke trang trí đồ án dơi. Gian phải là nơi bố trí bàn thờ Hậu vãng, kiểu thức giống bàn thờ Tiền vãng nhưng khác ở một số đồ án trang trí, quần bàn trang trí đồ án “phụng vũ” ở trung tâm, bốn góc trang trí đồ án dơi; tương tự bàn thờ Tiền vãng, trán khám thờ Hậu vãng cũng trang trí đồ án “tứ linh chầu lưỡng nghi”; mây và hoa sen ở trụ thân khám, hoa dây lá ở viền khám, dơi ở hai góc ke; diềm trên chia 3 ô hộc, chính giữa vẽ màu đồ án bát bửu (cuốn vở, bút lông), ô bên trái trang trí đồ án “tùng lộc”, ô bên phải “mai điểu”; diềm trái trang trí đồ án “liên điểu”, diềm bên phải đồ án “mai điểu”.

     - Miếu Bà (56B Nguyễn Thị Minh Khai): Trong tiền đường bố trí hai bàn thờ, đồ án trang trí khá đơn giản và chỉ thể hiện ở quần bàn. Quần bàn bên trái vẽ màu hình bình hoa, hòn non bộ, bể cá, chim chóc, chuồn chuồn. Bàn thờ bên phải vẽ màu hình chậu hoa mai và chim chóc, hai trái bầu hồ lô.

     - Miếu Ngũ Hành (trong khuôn viên Nhà lao Thông Đăng): Tiền đường bố trí hai bàn thờ Tả ban và Hữu ban. Quần bàn Tả ban vẽ màu tranh phong cảnh với đồ án chủ đạo là “mai điểu”; khám thờ được xây bằng vữa, đế dạng chân quỳ, trán khám thờ khảm sành sứ đồ án “lưỡng long chầu lưỡng nghi”, diềm trán khám thờ khảm sành sứ đồ án dây lá. Diềm trên thân khám trang trí các đồ án chùm lựu, hoa thị, bát bửu (thoi sách, bút lông và dải lụa); diềm bên trái vẽ màu đồ án cây hoa mai, diềm bên phải là hoa lan, ô hộc dưới cùng hai diềm cùng trang trí hình hoa thị. Hai góc ke trên lòng trong thân khám thờ trang trí đồ án dơi; bao quanh hai chữ Tả ban là đồ án các cụm mây. Khám thờ Hữu ban có kiểu thức tương tự Tả ban, chỉ khác ở một số đồ án trang trí, như quần bàn trang trí đồ án “tùng lộc”, đồ án bát bửu (bầu hồ lô) ở ô hộc trung tâm diềm trên, hai ô hộc ngoài cùng là đồ án chùm đào, diềm bên trái trang trí đồ án hoa cúc, diềm bên phải trang trí đồ án khóm trúc. Tường chắn trên lối vào hậu tẩm trang trí bức hoành dạng cuốn thư, đúc bằng vữa, vẽ màu các đồ án bút lông, hồi văn chữ 卍 (Vạn), chữ 夀 (Thọ).
- Miếu Bà (Tân Mỹ): Trong tiền đường bố trí hai bàn thờ Tiền hiền và Hậu hiền, đồ án trang trí giống nhau, quần bàn được vẽ màu đồ án chữ 夀 (Thọ) tròn và hình chân quỳ, khám thờ vẽ màu trên tường dạng hình giá kỉnh với các đồ án dơi, cụm mây, chân quỳ.

     - Miếu Bà (Phước Thắng): Tại không gian tiền đường bố trí hai bàn thờ, trên tường vẽ khám thờ với đồ án “Đông bình Tây quả”.

     - Miếu Bà Xóm Mới: Tiền đường bố trí hai bàn thờ Tiền hiền và Hậu hiền, đồ án trang trí hai bàn thờ gần như tương đồng. Quần bàn Tiền hiền được đắp nổi khảm sành sứ chữ 祿 (Lộc), bốn góc đắp nổi hồi văn. Quần bàn Hậu hiền đắp nổi khảm sành sứ chữ 夀 (Thọ), bốn góc cũng đắp nổi hồi văn. Khám thờ Tiền hiền được xây bằng vữa, trán khám thờ tạo hình cuốn thư, trung tâm trang trí đồ án vòng tròn lưỡng nghi, cụm mây, hồi văn, hai bên là đồ án bát bửu (đàn tỳ bà, bàn cờ), cạnh ngoài cùng đắp nổi khảm sành sứ đồ án hoa mai, hoa lan. Diềm bên dưới trán khám thờ vẽ màu đồ án dây lá và các cụm mây. Thân khám thờ trang trí đơn giản gồm các cụm mây và hồi văn. Tương tự, bàn thờ Hậu hiền có kết cấu và trang trí khá tương đồng với bàn thờ Tiền hiền, chỉ khác ở một số đồ án trang trí như trán khám thờ trang trí đồ án bát bửu (cuốn thư, bầu hồ lô), hai cạnh ngoài cùng trán khám thờ trang trí đồ án hoa cúc và khóm trúc.

     - Miếu Hiệp Hòa: Tiền đường bố trí 2 bàn thờ Tả ban và Hữu ban. Hai bàn thờ này không có đồ án trang trí, chỉ tô phết màu; trên tường Tả ban và Hữu ban cùng vẽ bức hoành với đồ án “hoa điểu”.

     - Miếu Trung Lộc: Tiền đường bố trí hai bàn thờ ở hai gian trái – phải, gian trái đề chữ “Quang tiền”, gian phải đề chữ “Hiển hậu”; quần bàn không có đồ án trang trí, khám thờ được vẽ trên tường dạng hình cuốn thư nhiều màu sắc, diềm trang trí hồi văn chữ 卍 (Vạn).

     - Miếu Trung Lương: Tiền đường bố trí hai bàn thờ sát tường biên phía Đông và Tây. Bàn thờ phía Đông đề chữ 褔 (Phúc), diềm vẽ màu hồi văn chữ 卍 (Vạn), tranh phong cảnh, hoa lá. Bàn thờ phía Tây đề chữ 祿 (Lộc), diềm trang trí các đồ án tương tự bàn thờ phía Đông.

     Đồ án trang trí tại án thờ trong không gian hậu tẩm

     Trong không gian hậu tẩm các ngôi miếu thờ Ngũ Hành Tiên Nương thường sẽ bố trí 01 bàn thờ với chủ thể thờ tự chính là 五 行 仙 娘 (Ngũ Hành Tiên Nương); một số ít trường hợp bố trí 03 bàn thờ, trong đó vị trí trung tâm là Ngũ Hành Tiên Nương, hai bên là Tả ban và Hữu ban. Bàn thờ chính thường bố trí linh tượng Ngũ Hành Tiên Nương hoặc các thần vị; khám thờ đa số được xây bằng vữa, trán khám thờ trang trí đồ án “tứ linh chầu lưỡng nghi”, “lưỡng long chầu nhật”, thân khám trang trí các đồ án bát bửu, hoa dây lá, trái đào, trái lựu; phần lưng khám thờ thường đề các chữ 五 行 仙 娘 (Ngũ Hành Tiên Nương), hoặc vẽ màu đồ án “phụng vũ”. Đồ án trang trí tại các quần bàn lại khá đa dạng, không theo một motif chung, trong đó thường gặp các đồ án “phụng vũ”, rồng, “long ngư hý thủy”, “hoa dây lá” (cùng có 2 trường hợp), số còn lại còn có các đồ án như “phúc thọ”, phong cảnh, chữ 褔 (Phúc), lân, lân cổn tú cầu; ngoài ra còn có một số trường hợp không có chi tiết trang trí. Các bàn thờ Tả ban, Hữu ban thường được xây khám thờ hoặc vẽ màu trên tường, các đồ án trang trí cũng khá đa dạng đề tài; trán khám thờ thường được trang trí đồ án “lưỡng long chầu lưỡng nghi”, thân khám trang trí các đồ án bát bửu, dây lá, hoa dây lá, hoa sen, “trúc điểu”, “hoa điểu”, cụm mây; quần bàn trang trí đa dạng các đồ án, không theo motif chung nào, như chùm lựu kết hợp dây lá, “tùng lộc”, chữ 夀 (Thọ), chân quỳ, con lân, quy đội phụng.

     - Miếu Ngũ Hành ấp Sơn Đông: Trong hậu tẩm bố trí 3 bàn thờ, chính giữa thờ Ngũ Hành Tiên Nương, hai bên thờ Tả ban và Hữu ban. Quần bàn hai bàn thờ Tả ban và Hữu ban trang trí đồ án giống nhau, cùng đắp nổi đồ án chùm lựu, hai đầu vẽ màu đồ án dây lá. Khám thờ Tả ban và Hữu ban cùng được đắp nổi trên mặt tường, trán trang trí đồ án “lưỡng long chầu lưỡng nghi”, bốn góc thân khám thờ cùng vẽ màu đồ án hồi văn, diềm trên vẽ hoa mẫu đơn, diềm dưới vẽ chùm đào; diềm bên trái khám thờ Tả ban vẽ đồ án bát bửu gồm có cây bút lông, cây sáo và dải lụa, diềm bên phải vẽ đồ án bát bửu gồm có thoi sách, bút lông và dải lụa; diềm bên trái khám thờ Hữu ban vẽ các đồ án bát bửu gồm có cuốn vở, bút lông và dải lụa, diềm bên phải vẽ trái bầu hồ lô và dải lụa. Khám thờ Ngũ Hành Tiên Nương được xây bằng vữa, đế khám được đắp nổi dạng chân quỳ, trán khám thờ vẽ màu đồ án “tứ linh chầu lưỡng nghi”, hai trụ thân khám thờ dạng khối tròn, trang trí hình rồng quấn quanh trụ, đầu trụ trang trí hình hoa sen. Lòng trong khám thờ bao quanh các chữ Ngũ Hành Tiên Nương là đồ án các cụm mây, diềm trên chia thành 3 ô hộc trang trí, ô chính giữa vẽ màu đồ án cây tùng lớn và phong cảnh sông nước, ô bên trái vẽ đồ án thuộc bát bửu gồm có cuốn vở và bút lông, ô bên phải vẽ màu đồ án bát bửu gồm có trái bầu hồ lô và cây sáo; hai diềm bên cùng trang trí đồ án “rùa đội hạc”. Hai mảng tường hai bên khám thờ vẽ màu đồ án “Đông bình Tây quả”. Quần bàn đắp nổi đồ án rồng bằng vữa.

     - Miếu Ngũ Hành Trà Quế: Bên trong hậu tẩm bố trí một bàn thờ Ngũ Hành Tiên Nương, trung tâm quần bàn đắp nổi, vẽ màu đồ án “phụng vũ”, bốn góc đắp nổi đồ án dây lá. Khám thờ được xây bằng vữa, trung tâm khám đề chữ 五 行 (Ngũ Hành), trán khám thờ khảm xà cừ đồ án “lưỡng long chầu nhật”, hai cạnh trán khám trang trí đồ án dây lá. Diềm bên dưới trán khám thờ vẽ màu đồ án hoa dây lá. Hai trụ thân khám thờ xây dạng hình khối trụ tròn, thân đắp nổi đồ án cụm mây, đầu trụ đắp nổi hoa sen. Diềm trên lòng trong khám thờ chia thành 3 ô hộc, ô bên trái trang trí đồ án chùm đào, bên phải chùm lựu, chính giữa hoa lá.

     - Miếu Trà Quân: Trong hậu tẩm bố trí 3 bàn thờ, chính giữa thờ Thần, bên trái thờ Tả ban, bên phải thờ Hữu ban. Trung tâm quần bàn Tả ban vẽ màu đồ án “chim trĩ và hoa mẫu đơn”, hai góc trên vẽ đồ án chùm lựu. Khám thờ xây bằng vữa, đế tạo hình chân quỳ, trán khám thờ vẽ màu đồ án “lưỡng long chầu lưỡng nghi”, hai cạnh ngoài và diềm dưới trán vẽ màu đồ án dây lá. Trụ hai bên thân khám thờ dạng trụ tròn, thân vẽ đồ án cụm mây, đầu trụ trang trí hoa sen. Diềm ngoài cùng trang trí đồ án hoa lá; diềm trên lớp trong chia thành 3 ô hộc, chính giữa vẽ màu đồ án bầu hồ lô, bên trái đồ án “trúc điểu”, bên phải đồ án “hoa điểu”; diềm bên trái vẽ màu đồ án hoa mai, bên phải hoa lan; hai góc ke trên trang trí đồ án dơi, thân khám (bao quanh chữ Tả ban) là đồ án các cụm mây. Trung tâm quần bàn Hữu ban trang trí đồ án “tùng lộc”, hai góc trên vẽ đồ án chùm đào. Trán khám thờ trang trí đồ án cơ bản giống khám thờ Tả ban, chỉ khác ở một số ô hộc trang trí: ô chính giữa vẽ màu đồ án bát bửu (thanh bảo kiếm), ô bên trái vẽ đồ án hoa sen, ô bên phải vẽ đồ án “hoa điểu”, diềm bên trái trang trí đồ án khóm trúc, diềm bên phải đồ án hoa cúc. Quần bàn thờ Thần trang trí đồ án “long ngư hý thủy” ở trung tâm, hai góc trên vẽ màu đồ án chùm lựu, hai góc dưới trang trí cây cỏ. Khám thờ xây bằng vữa, trán khám thờ trang trí đồ án “tứ linh chầu lưỡng nghi”, hai cạnh ngoài trán trang trí dây lá; dưới trán trang trí đồ án chùm lựu; hai trụ thân khám thờ dạng tròn, bề mặt vẽ các cụm mây, đầu trụ trang trí búp sen. Diềm ngoài lớp trong thân khám thờ vẽ đồ án hoa lá; diềm trên chia thành 5 ô hộc, ô trung tâm vẽ màu đồ án “tùng lộc”, ô bên trái trang trí đồ án cành hoa, ô bên phải trang trí đồ án chùm lựu, ô bên trái ngoài cùng vẽ đồ án bát bửu (bảo kiếm, phất trần), ô bên phải ngoài cùng vẽ đồ án bát bửu (cuốn vở, bút lông); hai diềm bên chia thành 3 ô hộc, ô đầu và cuối vẽ đồ án hoa lá, ô chính giữa viết câu đối; hai góc ke trên trang trí đồ án dơi. Lòng trong cùng khám thờ vẽ các đồ án hồi văn, bát bửu (bầu hồ lô, cuốn vở, bút lông), chùm đào và cành lá cách điệu; xung quanh chữ 神 (Thần) vẽ đồ án các cụm mây.

     - Miếu Ngũ Hành Thượng: Trong miếu bố trí 1 bàn thờ, quần bàn trang trí đồ án “lân cổn tú cầu” ở trung tâm, diềm trên trang trí đồ án hoa dây lá. Khám thờ được xây bằng vữa, vẽ màu các đồ án trang trí. Trán khám thờ trang trí đồ án “lưỡng long chầu lưỡng nghi”, hoa mẫu đơn, chùm đào, lựu, bát bửu, dây lá. Diềm ngoài thân khám thờ trang trí các đồ án hoa dây lá, bát bửu. Diềm trên lớp trong khám thờ trang trí chữ 夀 (Thọ), hoa dây lá; lòng trung tâm khám thờ trang trí đồ án “phụng vũ”.

     - Miếu Bà (56B Nguyễn Thị Minh Khai): Trong hậu tẩm bố trí 1 bàn thờ, quần bàn trang trí đơn giản chỉ chữ 褔 (Phúc) ở trung tâm, đồ án dơi hai góc trên quần bàn; khám thờ bằng gỗ, trang trí cũng đơn giản với đồ án hoa mẫu đơn, dây lá, ô da quy. Quy mô miếu có kết cấu bằng gỗ tuy nhiên chỉ chạm trổ đồ án dây lá ở đuôi kèo hiên.

     - Miếu Ngũ Hành (trong khuôn viên Nhà lao Thông Đăng): Trong hậu tẩm bố trí một bàn thờ, quần bàn vẽ màu đồ án “long ngư hý thủy”. Khám thờ được xây bằng vữa, trán khảm sành sứ đồ án “lưỡng long chầu nhật”, diềm trang trí dây lá. Trên thân trụ khám vẽ màu đồ án các cụm mây. Diềm trên thân khám chia thành 5 ô hộc, ô trung tâm vẽ màu đồ án “tùng lộc”, hai bên là ô trang trí hoa thị, ô ngoài cùng bên trái vẽ màu đồ án khóm trúc, ô ngoài cùng bên phải vẽ màu đồ án cây hoa mai; hai diềm bên vẽ màu đồ án “rùa đội hạc”, ô dưới hai diềm cùng trang trí đồ án hoa thị. Góc ke hai bên lòng trong khám trang trí đồ án dơi đúc bằng vữa. Tường thân khám thờ vẽ màu đồ án “phụng vũ”.

     - Miếu Hy Hòa: Trong hậu tẩm bố trí 3 bàn thờ, bàn thờ giữa là nơi đặt linh tượng Ngũ Hành Tiên Nương. Quần bàn trung tâm giữa vẽ màu đồ án chữ 夀 (Thọ) dạng tròn ở trung tâm, hai bên là hồi văn gấp khúc; khám thờ bằng gỗ, được chạm trổ, sơn son thếp vàng các đồ án cát tường, lưng khám thờ vẽ tranh phong cảnh sông núi. Quần bàn hai bên cùng vẽ màu chữ 夀 (Thọ), trên tường bàn thờ vẽ tranh phong cảnh sông núi.

     - Miếu Bà Tân Mỹ: Trong hậu tẩm bố trí 3 bàn thờ (Thần, Tả ban, Hữu ban). Quần bàn của bàn thờ Thần trang trí đồ án “phụng vũ” ở trung tâm, bốn góc là đồ án dơi, diềm trang trí các đồ án thuộc bát bửu. Quần bàn Tả ban vẽ màu đồ án hoa cúc và hoa mai. Quần bàn Hữu ban vẽ màu đồ án cây lựu. Khám thờ bàn thờ Thần được vẽ màu trên tường, trán khám thờ trang trí đồ án “Tứ linh chầu lưỡng nghi”; thân khám trang trí các đồ án hoa sen, bát bửu, hoa lá, rồng, cụm mây. Khám thờ bàn thờ Tả ban và Hữu ban không có đồ án trang trí.

     - Miếu Bà (Phước Thắng): Vẽ màu trang trí đồ án “lưỡng phụng chầu lưỡng nghi” trên diềm chắn trên lối vào hậu tẩm; trung tâm khám thờ bàn thờ giữa hậu tẩm trang trí đồ án “phụng vũ”. Quần bàn hậu tẩm vẽ màu đồ án con lân. Khám thờ hậu tẩm được tạo hình và trang trí các đồ án khá đặc sắc, trán khám thờ được tạo hình cuốn thư, trang trí đồ án “lưỡng long chầu nhật”, hai bên trang trí hình con lân, hồi văn chữ 卍 (Vạn), cụm mây (các đồ án này được khảm sành sứ, xà cừ, vẽ màu); ngoài ra các vị trí khác trên khám thờ còn được trang trí đồ án hoa dây lá, hoa cúc, hoa mai, dơi bằng kỹ thuật đắp nổi kết hợp khảm sành sứ, xà cừ. Bàn thờ Tả ban và Hữu ban trong hậu tẩm trang trí đơn giản, chỉ vẽ màu đồ án các cụm mây; quần bàn vẽ hình chân quỳ.

     - Miếu Bà Xóm Mới: Trong hậu tẩm bố trí 1 khám thờ, đề các đại tự Hán Nôm (Ngũ Hành Tiên Nương), quần bàn trang trí dạng chân quỳ, trung tâm trang trí đồ án chữ 褔 (Phúc), xung quanh là đồ án dây lá. Khám thờ xây bằng vữa, trán trang trí đồ án “lưỡng long chầu nhật”, hai cạnh ngoài cùng trang trí đồ án “phụng vũ”. Diềm dưới trán khám thờ trang trí đồ án dây lá. Thân khám thờ trang trí hồi văn và các cụm mây.

     - Miếu Hiệp Hòa: Bên trong hậu tẩm bố trí một bàn thờ, không có khám thờ. Diềm trên quần bàn vẽ màu đồ án hoa lá ở trung tâm, bên trái vẽ chùm đào, bên phải vẽ chùm lựu. Trung tâm quần bàn khảm sành sứ đồ án chữ 夀 (Thọ) tròn, bốn góc khảm sành sứ đồ án dơi.

 
Không gian thờ tự miếu Trung Lộc (xã Tân Hiệp)
Không gian thờ tự miếu Trung Lộc (xã Tân Hiệp)
 
     - Miếu Trung Lộc: Trong hậu tẩm bố trí 1 bàn thờ, quần bàn vẽ màu đồ án hoa lá. Khám thờ xây bằng vữa, trán khám thờ và diềm dưới vẽ màu đồ án “lưỡng long chầu nhật”, diềm hai bên vẽ giả hình trụ trang trí hoa sen ở đỉnh trụ, tường lòng trong khám thờ vẽ đồ án “phụng vũ”.

     - Miếu Bà Xóm Trong: Tiền đường miếu không bố trí thờ tự, chỉ bố trí 1 bàn thờ trong hậu tẩm. Trung tâm quần bàn vẽ màu đồ án hoa dây lá, hai góc trên vẽ màu đồ án hồi văn dây lá, hai góc dưới vẽ màu đồ án dây lá; diềm trên vẽ màu đồ án bát bửu (trung tâm), hai bên là đồ án chùm đào. Khám thờ được làm bằng gỗ, trán khám chạm nổi đồ án “lưỡng long chầu lưỡng nghi”, hai cạnh bên chạm đồ án dây lá. Phần đế khám chạm nổi đồ án hoa dây lá. Ô hộc diềm hai bên chạm nổi đồ án “rùa đội hạc”; diềm trên chạm nổi đồ án dơi ở trung tâm, hai bên chạm nổi đồ án hoa dây lá.

     - Miếu Ngũ Hành (Bãi Hương): Trong hậu tẩm bố trí 1 bàn thờ, quần bàn vẽ màu tranh phong cảnh. Khám thờ xây bằng vữa, trung tâm trán khám thờ vẽ màu đồ án vòng tròn lưỡng nghi, diềm dưới vẽ màu đồ án hoa dây. Tường lòng khám thờ vẽ màu các vòng xoáy tựa như các ngọn lửa.

     - Miếu Trung Hòa: Tiền đường không bố trí thờ tự. Trong hậu tẩm bố trí 3 bàn thờ (Thần, Tả ban, Hữu ban), các đồ án trang trí đã bị phai mờ, bong tróc từ lâu, không thể nhận diện được đồ án.

     - Miếu Trung Lương: Hậu tẩm bố trí 3 bàn thờ (Thần, Tả ban, Hữu ban). Quần bàn bàn thờ Tả ban vẽ màu đồ án con lân ở trung tâm, hai góc trên là đồ án dơi; khám thờ được vẽ trên tường, trang trí các đồ án cụm mây, trên đầu khám vẽ màu đồ án dơi. Khám thờ Hữu ban trang trí giống bàn thờ Tả ban, quần bàn trang trí đồ án chim phụng và rùa. Bàn thờ Thần, quần bàn vẽ màu đồ án rồng ở trung tâm, diềm trên vẽ màu đồ án bầu hồ lô ở trung tâm, hai bên là đồ án hồi văn chữ 卍 (Vạn). Khám thờ được đúc bằng vữa, khảm xà xừ các đồ án trang trí đặc sắc; trán khám thờ tạo hình cuốn thư, trang trí đồ án “lưỡng long chầu lưỡng nghi”, dây lá, hoa lá, thủy ba. Diềm ngoài cùng của thân khám trang trí các đồ án bát bửu. Diềm trên thân khám thờ chia ô hộc, trang trí các đồ án khóm trúc đăng đối với cây hoa mai, hai ô ngoài cùng trang trí đồ án “cành lá hóa rồng”; hai ô hộc đầu của diềm hai bên trang trí hồi văn, hai ô dưới trang trí đồ án rùa đội cuốn thư. Diềm trong trang trí hồi văn; hai góc ke trên trang trí hồi văn lá. Lòng tường thân khám thờ vẽ đồ án rồng bao quanh chữ 五 行 列 位 (Ngũ Hành liệt vị).

     Có thể nhận thấy các đồ án trang trí tại không gian thờ tự của các di tích thờ Ngũ Hành Tiên Nương ở Hội An khá đa dạng về đề tài và kỹ thuật tạo hình. Trải qua thời gian, với nhiều biến động của thời cuộc, mặc dù đã có những biến đổi về quy mô cũng như hình thức kiến trúc nhưng thông qua các đề tài, chi tiết trang trí tại các di tích này vẫn còn bảo lưu, gìn giữ được nhiều giá trị nghệ thuật trang trí truyền thống. Đây là nguồn dữ liệu quan trọng để nghiên cứu về các đề tài, đồ án nghệ thuật trang trí truyền thống về miếu thờ Ngũ Hành Tiên Nương ở Hội An nói riêng, góp phần làm phong phú, đa dạng các đề tài trang trí tại các công trình kiến trúc tín ngưỡng ở Hội An nói chung.

Tài liệu trích dẫn:
[1] Miếu Ngũ Hành Bãi Hương, miếu Hiệp Hòa, miếu Bà Xóm Trong, miếu Bà Xóm Giữa, miếu Ngũ Hành ấp Sơn Đông, miếu Bà Xóm Mới, miếu Trung Hòa, miếu Trung Lương, miếu Hy Hòa, miếu Ngũ Hành Thượng, miếu Ngũ Hành – 129 Phan Châu Trinh, miếu Ngũ Hành – 56B Nguyễn Thị Minh Khai, miếu Ngũ Hành – Tân Mỹ, miếu Bà – Phước Thắng, miếu Trà Quân, miếu Ngũ Hành Trà Quế, miếu Ngũ Hành – Tu Lễ.

Tác giả: Trần Phương

Nguồn tin: Trung tâm Quản lý Bảo tồn Di sản Văn hóa Hội An

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết
liên kết web
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây