Thủy quân dưới triều đình nhà Nguyễn được chú trọng xây dựng phát triển, đặc biệt dưới thời vua Minh Mạng. Những chính sách về việc thành lập các thành, doanh hay trấn, cửa biển, việc quản lý sổ sách, số nhân khẩu trong thuyền, tổ chức, lực lượng, vấn đề đặt lệ duyệt tuyển binh lính, hay những vấn đề về việc cứu hộ cứu nạn những tàu thuyền buôn bị nạn trên biển, đối với những quan viên, binh lính đi công sai gặp nạn,… luôn được quan tâm hàng đầu. Thủy quân nhà Nguyễn được chia làm 2 cấp, cấp Trung ương (ở Kinh thành) và cấp địa phương (ở các tỉnh). Về cấp bậc, ở Trung ương có 5 cấp: gồm Thủy sư, doanh vệ, đội, thập, ngũ; ở tỉnh có 6 cấp: Thủy sư, doanh vệ, cơ, đội, thập, ngũ. Các tổ chức lực lượng của mỗi cấp sẽ có các cơ chế quản lý, số lượng, cấp bậc, phẩm trật,… khác nhau. Việc tổ chức Thủy quân càng quy củ, chặt chẽ càng thể hiện vai trò bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, trật tự xã hội, bên cạnh đó không chỉ thể hiện được tầm nhìn mà còn thể hiện được sự bao dung, lòng nhân ái của các bậc quân vương đối với các thuyền buôn, ngư dân không chỉ trong nước mà còn đối với các tàu buôn nước ngoài gặp nạn khi trong vùng lãnh hải nước ta.
Tại Hội An, vấn đề tàu thuyền, hàng hải cũng được triều đình quan tâm, chú trọng, tại đây không chỉ là một thương cảng nổi tiếng sầm uất, tập trung nhiều thương thuyền tụ hội, mà còn có nhiều nhân vật lành nghề, có tay nghề kỹ xảo trong quá trình đóng thuyền, có các thông ngôn tàu khách, đặc biệt có các nhân vật nắm giữ các chức vụ Vệ úy, Đội trưởng, Thư lại thuộc các vệ Thủy quân của triều đình được sắc phong như Nguyễn Văn Tảo, Bùi Phước Ưng, Bùi Văn Trạch…
Đối với những nhân vật được phong sắc có nhiều công lao làm việc trong Thủy quân, tuy chỉ mới sưu tầm được 6 bản sắc phong được phong thăng quan cấp bậc qua các đời vua như Nguyễn Văn Tảo, vị quan được truy thăng chức sắc sau khi mất có Bùi Phước Ưng. Những sắc phong này đã phần nào thể hiện được những giá trị về lịch sử, thông tin về tổ chức bộ máy chính quyền trên phương diện Thủy quân, không chỉ là những đóng góp cho địa phương làng xã, mà còn đóng góp to lớn cho đất nước.
- Ông Bùi Phước Ưng; người làng Thanh Hà, có công lao trong việc quân, trải qua các trận mạc, nên được ban chuẩn truy phong chức tước vào năm Minh Mạng thứ 17 (1836) như sau:
Phiên âm:
Thừa thiên hưng vận Hoàng đế chế viết: Nhân dân đôn phục sự chi kiền, hiềm di như nhất vương giả, hậu sức chung chi điển hà tế mĩ di quyến niệm tiềm hung nghi dị số. Nhĩ Thủy sư Trung doanh ngũ vệ đội trưởng thủ Linh Phụng đại thuyền cai khoang sự cố Bùi Phước Ưng tang bồng tráng chí, quỹ cốc trinh tâm sư trung cửu lệ nhung hành tọa tác bẩm huấn tế chi tứ, hải ngoại lỗ sung công phái giá sử nhàn tiến chỉ chi nghi, phong đào tải thiệp ư trùng dương phao ảnh cự tỉnh phù động […] thích, thử phàm tường sơ phản lỗ long ủy tế chi nghi, đồng ân bạt lí vi lao hạp xỉ vinh ai chi điển. Tư đặc truy tặng Hiệu Trung kỵ úy Chánh đội trưởng thụy Hùng Cảo. Tích chi sắc mệnh. Ô hô! Trưng chương khổng dịch dụng chiêu thể tuất chi nhân, tinh sảng hữu tri vĩnh phục ác ưu chi quyến, khẩn chuẩn minh hán hoặc khắc.
Khâm thừa.
Minh Mạng thập thất niên bát nguyệt nhị thập lục nhật.
Dịch nghĩa:
Thừa thiên hưng vận Hoàng đến viết rằng: cái thành kính của người bề tôi ở chỗ thành khẩn phục tòng công vụ, như bậc quân vương biến nguy thành an vậy, lễ nghi được chỉnh đốn, lại nhớ đến những điều tốt đẹp đã qua, thương cho những người có tiếng tốt lưu truyền là thế nhưng lại khiêm nhường, vì thế cân nhắc cho ngươi vị quan quá cố là Bùi Phước Ưng, giữ chức Đội trưởng vệ 5 Trung doanh Thủy sư giữ thuyền lớn Linh Phụng, người cai quản các việc trong thuyền, chí khí vẫy vùng ngang dọc 4 phương trời, là người ngay thẳng, trung thành, gưỡng mẫu, phục vụ trung quân đã lâu, làm việc tài giỏi, tạo dựng nên phép tắc trong quân đội, luôn chú ý đến việc huấn luyện, chỉnh đốn ngay ngắn, công phái, khí độ gánh vác được việc lớn của quốc gia, điều khiển xa giá thành thạo, tiếng tăm còn hơn sóng lớn, từng trải hiểm nguy, vượt ngàn trùng dương, dùng sự hưng thịnh theo lễ tiết xưa nay, thể hiện ân đức vinh hiển lâu dài.
Xét thấy công lao sao chẳng được tiếng vẻ vang, xót thương mà ban cho ân điển. Nay đặc chuẩn truy tặng là Chánh đội trưởng kỵ úy Hiệu Trung ban thụy là Hùng Cảo. Ban cho cáo mệnh. Than ôi! Tấm lòng thánh kính ấy thật đáng biểu dương, người có đức nhân tích lũy được khả năng, thực hành theo quy tắc. Nhìn lại tinh thần thật là sáng suốt, có sự hiểu biết sâu rộng, chức vụ thấm nhuần, thật là thâm sâu, nhìn xa trông rộng, mới có thể gánh vác công vụ.
Hãy phụng mệnh!
Ngày 26 tháng 8 năm Minh Mạng thứ 17 (1836).
- Ông Nguyễn Văn Tảo; người làng Thanh Hà, làm quan trải qua các đời từ vua Minh Mạng tới vua Tự Đức, ông được thăng chức trong các công việc ở quân ngũ, giữ gìn sổ sách thư tịch qua các sắc phong vào các năm Minh Mạng thứ 1 (1820), năm Minh Mạng thứ 5 (1824), năm Thiệu Trị thứ 1 (1841), năm Thiệu Trị thứ 4 (1844), năm Tự Đức Thứ 2 (1849).
Sắc phong vào năm Minh Mạng thứ 1 như sau:

Sắc phong cho ông Nguyễn Văn Tảo vào năm Minh Mạng thứ 1
Phiên âm:
Khâm sai Chưởng Thủy quân quan
Kê
Nhất sai nội quân Trung Thủy cơ tứ đội Biện lại Tảo Nguyễn Văn Tảo quán Điện Bàn phủ Diên Khánh huyện Phú Triêm hạ tổng Thanh Hà xã, phả y danh phục sự hữu nhật, công vụ sảo tường, cụ hữu y cư Chánh Phó quản cơ thân thỉnh. Nhưng thử, hợp sai y danh Tiện nghi Thủ hiệp Tảo, tòng y đội Cai đội phụng thủ bạ tịch chư công vụ. Nhược sử sự phất kiền, hữu công pháp tại. Tư sai.
Minh Mạng nguyên niên thất nguyệt sơ nhị nhật.
Dịch nghĩa:
Quan Khâm sai cai quản Thủy quân
Sai phái Biện lại Nguyễn Văn Tảo ở đội 4 của cơ Trung Thủy, quê quán tại xã Thanh Hà tổng Phú Triêm hạ, huyện Diên Khánh phủ Điện Bàn, phục vụ trong quân đã lâu ngày, các công việc đều khá am tường, lại có các viên Chánh Phó quản cơ của cơ ấy trình xin. Vì thế, hợp thức sai phái tên ấy là Tiện nghi Thủ hiệp Tảo, nghe theo mệnh mệnh của viên Cai đội của đội ấy để phụng hành các công việc giấy tờ sổ sách. Nếu không kính cẩn thừa hành, sẽ có phép công nghiêm trị. Nay sai phái!
Ngày mồng 2 tháng 7 năm Minh Mạng thứ 1 (1820).
(Ấn: Thủy quân chi ấn).
Sắc phong vào năm Thiệu Trị thứ 1 như sau:
Phiên âm:
Kinh kỳ Thủy sư Trung doanh nhất vệ Chưởng vệ kiêm quản nhị, tam, tứ, ngũ đẳng vệ Đoàn.
Vi quyền cấp văn bằng sự. Chiếu đắc nội doanh tứ vệ Tri bạ khuyết viên, nhi cai vệ chuyên thủ sách tịch chính thuộc phạp nhân, tái thừa biện công vụ diệc vô sở trách. Tư lân đắc nội doanh ngũ vệ tam đội Tòng Cửu phẩm Thư lại Nguyễn Văn Tảo, ứng vụ niên thâm, công ư mẫn cán. Tiếp thử, hợp hành quyền cấp văn bằng cai viên sung Điển ti y vệ sách tịch, tòng Quản vệ viên phụng hành công vụ. Yếu nghi gia tâm cần cán, mẫn tế sự công, vô đắc sơ hốt giải đãi. Khả dã tu chí quyền cấp giả.
Hữu quyền cấp.
Nội doanh ngũ vệ Tam đội Tòng Cửu phẩm Thư lại, quyền sung Điển ti tứ vệ sách tịch Nguyễn Văn Tảo chuẩn thử.
Thiệu Trị nguyên niên thập nhị nguyệt nhị thập nhị nhật,
(Kinh kỳ Thủy sư Trung doanh quan phòng).
Dịch nghĩa:
Quan họ Đoàn lãnh chức Chưởng vệ vệ 1, kiêm quản các vệ 2, 3, 4, 5 thuộc Trung doanh của Thủy sư.
Thực thi việc tạm thời cấp phát văn bằng. Xét thấy trong doanh hiện thiếu một viên Tri bạ ở vệ 4, mà công việc chuyên chủ trông coi sổ sách chính thuộc của vệ ấy thì thiếu người, với lại việc lo thu xếp các việc công cán cũng không có ai đảm trách. Nay chọn được Nguyễn Văn Tảo, đang làm chức Tòng Cửu phẩm Thư lại ở đội 3 vệ 5, theo hầu công việc đã nhiều năm, tỏ ra là người mẫn cán. Vì vậy, tạm thời cấp văn bằng cho viên ấy sung vào chức Điển ti, quản lý sổ sách của vệ ấy, nghe theo mệnh lệnh của viên Quản vệ để phụng hành công vụ. Phải nên gắng lòng siêng năng để làm tròn chức phận, không được sơ suất bê trễ. Vậy nên tạm ban cho bằng cấp.
Trên đây là nội dung bằng cấp (tạm thời).
Nội doanh ngũ vệ Tam đội Tòng Cửu phẩm Thư lại, quyền sung Điển ti tứ vệ sách tịch Nguyễn Văn Tảo, hãy chuẩn theo đó!
Ngày 22 tháng 12 năm Thiệu Trị thứ nhất (1841).
(Ấn: Kinh kỳ Thủy sư Trung doanh quan phòng).
Ngoài ra, còn có ông Bùi Văn Trạch, cũng người làng Thanh Hà, làm Phó vệ úy vệ 3 thuộc Hữu doanh Thủy sư Kỳ kỳ. Tuy sắc phong không còn những qua thông tin 2 sắc phong truy phong cho cha của ông là Bùi Văn Biều làm Phó quản cơ Tín Nghĩa Đô úy, mẹ là Nguyễn Thị Giàu được truy tặng Tòng tứ phẩm Cung nhân mới biết được danh tính, cũng như chức vụ của ông.
Tuy các sắc phong cho các nhân vật làm việc trong Thủy quân ở Hội An không nhiều, nhưng đây không chỉ là một sử liệu quý giá, mà còn là minh chứng cho vai trò quan trọng của lực lượng Thủy quân trong việc bảo vệ an ninh và phát triển kinh tế biển, trong đó có Hội An. Sự hiện diện của chủ đề này đã góp phần làm đa dạng thêm về nội dung phong tước, phẩm hàm cho các nhân vật qua các tài liệu sắc phong ở Hội An. Qua đó, phản chiếu một cách sinh động, toàn diện bức tranh văn hóa lịch sử qua các triều đại phong kiến.