Âu thuyền, Cù Lao Chàm nhìn từ trên không - Ảnh: Quang Ngọc
Về tiếng nói, chữ viết, Cù Lao Chàm là một ốc đảo về ngôn ngữ. Tại đây còn bảo lưu nhiều dấu vết ngôn ngữ cổ cả về từ vựng và ngữ âm. Người Cù Lao Chàm có sự chuyển hóa giữa thanh hỏi, ngã với thanh nặng, ví dụ: “củi”, “cũi” thành “cụi” và ngược lại “đỗi”, “đổi” thành “đội”. Mới nghe tưởng chừng như tiếng nói vùng Thanh Nghệ. Trong sinh hoạt hằng ngày, đến nay, cư dân Cù Lao Chàm vẫn còn sử dụng nhiều từ địa phương mà không phải ai mới nghe cũng có thể hiểu được như “giại” là tảng đá nhô ra trên vách núi, “kìn” có nghĩa là uống một hơi (nước), “ót” là bó (củi), “cấu” là gạo, “rào” là nước; nhóc là “cồn”; “lừa” là các cấp độ sóng biển,…
“Nồi Rang nhứt Tế, nhì Sềnh
Dưới Giành chú Chắt, mon trên anh Dừa
Làng nghề phải giữ tích xưa
Đừng có chưa nhóc đã sợ, chưa lừa đã run”
Về cấp độ gió hiện nay, người đi biển ở Cù Lao Chàm vẫn còn dùng chữ “tố” để chỉ những cơn gió mạnh:
“Ra khơi bữa có bữa không
Lạy trời đừng để tố giông cho mình”
Chữ “tố” này đã xuất hiện trong tự điển Việt Bồ La của giáo sư Alexandre De Rhode xuất bản tại Roma (Ý) vào năm 1651: “Tố: bão táp”.
Một hóa thạch ngữ âm dân gian đó chính là địa danh Cù Lao Chàm. Đây là địa danh Việt có nguồn gốc Mã Lai - Nam Đảo được phương Tây ghi bằng chữ La Tinh là Ciam Pullo, người Việt gọi là Cù Lao Chàm, người Trung Hoa ghi bằng chữ Hán là Chiêm bất lao, Tiêm bích la… Địa danh này gắn liền với thời kỳ phát triển mạnh mẽ về giao thương hàng hải của Champa.
Về ngữ văn dân gian, tuy chưa thấy đầy đủ nhưng đã sưu tầm tập hợp được ở Cù Lao Chàm một lượng lớn đơn vị thơ ca dân gian, và chuyện kể dân gian cho dù dân số ở đây không nhiều. Đó là những câu tục ngữ, ca dao, hò vè, nói về đặc điểm vùng đảo Cù Lao Chàm, về kinh nghiệm thời tiết, khí hậu, ngành nghề, về tâm tư tình cảm của người dân biển đảo. Các đơn vị này mang đặc điểm chung của thơ ca dân gian cả nước đồng thời có những nét riêng của vùng đảo Cù Lao Chàm:
“Ra Lao đốn lụi thật dài
Chờ cho khô lá xuống tai chựt nồm”
Câu ca tài tình ở chỗ vừa mô tả một hoạt động của người dân là ra hòn Lao để đốn lụi, một loại cây đốt thân thẳng dùng làm hàng rào. Chực Nồm là chờ gió Nồm. Tuy nhiên nếu viết hoa các chữ Lao, Lụi, Dài, Khô, Lá, Tai, Nồm thì đó là tên các hòn đảo ở Cù Lao Chàm, hòn Lụi là môt tên gọi khác của hòn Mồ, hòn Nồm là tên gọi khác của hòn Ông.
“Lao Chàm nắng đẹp ban mai
Có đàn chim én nối dài mùa xuân”
Câu ca khắc hoạ rõ nét đặc điểm của Cù Lao Chàm, nơi có nhiều hang động, quê hương của chim yến.
Truyện kể dân gian ở đây cũng khá phong phú bao gồm các truyền thuyết về khởi nguyên của vùng đảo Cù Lao Chàm, về các địa danh, về nàng Yến, về lốc tố, về sóng biển,…
Nghệ thuật trình diễn, ngoài hát hò khoan, hát ru, ở Cù Lao Chàm trước đây cũng như hiện nay còn có loại hình hát bả trạo rất phát triển. Loại hát này được tổ chức trong dịp cúng cầu ngư, cúng cô hồn hàng năm. Cù Lao Chàm trước đây còn có hình thức lên đồng có múa hát.
Về tập quán xã hội và tín ngưỡng, cũng như cư dân Việt ở mọi miền đất nước, cư dân Cù Lao Chàm coi trọng việc thờ cúng tổ tiên và cúng bái vào các ngày rằm, mồng một hằng tháng. Người dân ở đây có tín ngưỡng đa thần, nhiều người theo đạo Phật. Họ rất tín ngưỡng cá Ông (cá voi) và thờ nhiều vị thần biển như bà Đại Càn, thần Phục ba (thần chế ngự sóng gió); ông Bích, ông Tứ,…
Về lễ hội truyền thống, hàng năm cư dân Cù Lao Chàm thực hành nhiều lễ lệ, lễ hội trong đó có thể kể hai lễ hội lớn là lễ Cầu ngư và lễ giỗ tổ nghề Yến. Lễ Cầu ngư được tổ chức tại lăng Ông Ngư ở Bãi Làng vào ngày mồng 4 tháng 4 âm lịch hàng năm. Lễ huy động đông đảo dân làng tham gia. Trong lễ ngoài việc cúng tế theo nghi thức truyền thống gồm cúng âm linh và cúng ông Nam Hải cùng các vị thần bảo hộ dân làng còn tổ chức hát bả trạo. Trước đây còn có hát bội. Xong lễ ngư dân thường tổ chức các hoạt động thể thao, vui chơi giải trí như đua ghe, lắc thúng chai, kéo co, nhảy bao bố,…
Miếu tổ nghề Yến - Ảnh: Quang Ngọc
Lễ giỗ tổ nghề Yến được tổ chức tại miếu tổ nghề yến ở Bãi Hương vào ngày 10 tháng 3 âm lịch hằng năm. Thường lễ tổ diễn ra hai ngày. Trước lễ chính một ngày những người chủ trì, vận động bà con trong xóm dọn dẹp vệ sinh, trang hoàng khu vực cúng tế, bày biện lễ vật trên các bán thờ, khám thờ. Tối đến các vị cao niên tổ chức cúng lễ túc. Lễ chính diễn ra vào ngày hôm sau. Sáng sớm, vị chánh tế cùng lễ nhạc lên thuyền để nghinh thần, rước vong tại các làng miếu từ Bãi Làng đến Bãi Hương. Sau đó tổ chức hai diên cúng gồm cúng âm linh và cúng hội đồng, cúng tổ theo nghi thức truyền thống.
Về nghề thủ công truyền thống, tuy dân số ít nhưng Cù Lao Chàm là vùng đảo đa nghề. Ngoài các nghề đánh bắt hải sản, nghề nông tại đây còn phát triển một số nghề thủ công mang đậm dấu ấn biển đảo như nghề làm mắm, nghề đốn lá rừng, hái rau rừng, nghề đan võng ngô đồng, nghề khai thác yến sào (kết hợp với làng Thanh Châu), nghề làm nhà mây tre, nghề làm bánh ít, bánh su sê, nghề đan lưới… Trong số đó có hai nghề được ghi vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia là nghề khai thác yến sào và nghề đan võng ngô đồng. Trước đây tại Cù Lao Chàm còn có nghề đốt than, đốn củi nhưng nay không còn do để bảo vệ rừng.
Về tri thức dân gian, trải qua quá trình tiếp cận, tương tác với môi trường biển đảo của cư dân Cù Lao Chàm đã tích luỹ nên một kho tàng tri thức dân gian phong phú, đặc sắc gắn với môi trường mà mình sinh sống đó là kho tri thức bản địa về địa hình, thời tiết, khi hậu; về luồng lạch trên biển; về ngư trường đánh bắt; về y dược tại chỗ; về ẩm thực biển; về chế biến hải sản; về điều khiển phương tiện hành nghề. Các tri thức này cho đến nay vẫn còn hữu dụng.
Với tất cả những giá trị đa dạng, đặc sắc về địa lý tự nhiện và tài nguyên nhân văn nên Cù Lao Chàm từng được ca ngợi là “Hòn ngọc trên biển Đông”, là “Đảo xanh huyền thoại” và ngày 25 tháng 6 năm 2009 được Uỷ ban điều phối quốc tế chương trình sinh quyển và con người thuộc UNESCO (MAB) ghi danh Cù Lao Chàm - Hội An là Khu dự trữ sinh quyển thế giới.
Alexardre De Rhode, Từ điển An Nam – Lusitan – La Tinh, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1991, tr.233.