Tổng quan về di sản kiến trúc Khu phố cổ Hội An

Chủ nhật - 24/08/2025 22:50
Khu phố cổ Hội An được UNESCO công nhận Di sản văn hóa thế giới vào ngày 4 tháng 12 năm 1999. Kể từ đó, Hội An được du khách trong và ngoài nước biết đến nhiều hơn. Rất nhiều người tìm đến tham quan Khu phố cổ, ấn tượng với bầu không khí thanh bình, ẩm thực phong phú, nhân tình thuần hậu… và đặc biệt nhất là kiến trúc cổ kính nơi đây.
pho co hoi an
Một góc phố cổ Hội An - Ảnh tư liệu
 
     Từ giữa thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX, với chính sách ngoại giao thoáng mở của các chúa Nguyễn, nhiều thương nhân nước ngoài từ Nhật Bản, Trung Quốc và phương Tây đã đến Hội An lập phố, buôn bán và định cư ở đây. Bối cảnh lịch sử này đã tạo điều kiện cho Hội An hình thành, phát triển đô thị từ rất sớm, trở thành thương cảng quốc tế quan trọng và là một trung tâm giao lưu thương mại bậc nhất ở Đàng Trong. Khu đô thị này phản ánh sự ảnh hưởng văn hóa đa dạng của các cộng đồng khác nhau cộng tác cùng chung sống, là cửa ngõ hội nhập văn hóa giữa phương Đông và phương Tây, biểu hiện khá rõ nét thông qua kiến trúc.

     Nhìn trên mặt bằng tổng thể, Khu phố cổ có hai đầu thuôn dần về hai hướng đông - tây dọc theo bờ sông Hoài với chiều dài khoảng 1km và chiều rộng khoảng 0,3km theo hướng bắc - nam. Trong dân gian có câu “Thượng Chùa Cầu, hạ Âm Bổn”, đây là hai công trình kiến trúc tiêu biểu, giới hạn cho hai đầu đông - tây của Khu phố cổ. Một số nghiên cứu cho thấy rằng đường Trần Phú (tên gọi hiện nay) là con đường cổ nhất, với “Các dãy đều xây bằng gạch và chỉ có một tầng, tất cả đều được bố trí để buôn bán, phía sau là những nhà kho kín đáo[1], mang dáng vẻ của một khu thương nghiệp hoạt động nhộn nhịp trên bến dưới thuyền.

     Đến nửa sau thế kỷ XIX, khi bờ sông được bồi dần về phía Nam, các dãy phố song song bờ sông như Nguyễn Thái Học, Bạch Đằng được hình thành và cùng với chúng là những đường phố cắt ngang kiểu bàn cờ như Lê Lợi, Hoàng Văn Thụ, Trần Quý Cáp… và nhiều kiệt, hẻm thẳng, sâu. Theo đó, nhiều công trình kiến trúc trên tuyến đường Trần Phú có niên đại khởi dựng sớm hơn so với các công trình trên các tuyến đường còn lại. Trong thời kỳ Pháp thuộc, người Pháp đã cho chỉnh trang đường giao thông, tuyến phố, quy hoạch lại kiến trúc theo bố cục của một đô thị hiện đại đương thời. Khoảng thời gian này, khu phố được mở rộng, xuất hiện các công trình kiến trúc dân dụng - nhà làm việc (công sở) và nhà ở cho công chức mang ảnh hưởng kiến trúc phương Tây hay còn gọi là kiến trúc thuộc địa, tiêu biểu là Khu phố mang dấu ấn kiến trúc Pháp trên tuyến đường Phan Bội Châu.

 
pho co hoi an
Một góc phố cổ Hội An  - Ảnh: Quang Ngọc
 
     Có thể nói, hiếm có nơi nào tập trung mật độ di tích dày đặc như ở Khu phố cổ Hội An, có sự kết hợp hài hòa giữa không gian, bố cục kiến trúc và sự đan quyện tài tình giữa các phong cách kiến trúc Việt - Hoa - Nhật - phương Tây. Trong đó, những ngôi nhà gỗ (nhà phố, nhà thờ tộc) là loại hình di tích chủ yếu tạo nên diện mạo kiến trúc đô thị, vừa mang những đặc trưng cơ bản của ngôi nhà rường truyền thống, vừa có những đặc điểm riêng vô cùng độc đáo. Những ngôi nhà cổ thấp, nhỏ, nằm san sát bên nhau, nương tựa vào nhau để cùng tồn tại, tạo sự đa dạng về hình thái kiến trúc. Những bức tường trồi sụt, những mái ngói âm dương thâm nâu, thò thụt, đan cài nhấp nhô; những bờ nóc, bờ hồi uốn cong mềm mại… luôn gây ấn tượng mạnh mẽ, tạo cho Hội An vẻ thu hút bề ngoài. Vào bên trong nhà, sẽ bị choáng ngợp bởi các chi tiết trang trí chạm trổ trên các cấu kiện kiến trúc như vì kèo, trính, trụ đội, con ke đến các vật dụng nội thất như hoành phi, liễn đối, tủ kệ, bàn ghế, tượng trang trí, tượng thờ…

     Có thể nói rằng, một chi tiết trang trí đặc trưng hết sức thú vị, riêng có, giúp “nhận diện” nhà gỗ Hội An, đó chính là đôi mắt cửa. Có lẽ ngay từ ban đầu, đây chỉ là hai chốt gỗ có công năng kiến trúc là chính, giúp giữ ổn định hệ khung kết cấu. Dần dần, chúng được tạo hình, chạm trổ trang trí nhiều đồ án cát tường khác nhau, với hàm ý cầu mong gia chủ tránh được hoạn nạn, rủi ro; làm ăn phát đạt, có cuộc sống ấm êm, hạnh phúc. Vì thế, mắt cửa không những có giá trị về kiến trúc, nghệ thuật mà còn hàm chứa giá trị về văn hóa, tín ngưỡng, làm cho hồn phố có sức hấp dẫn kỳ lạ.

     Bên cạnh loại hình nhà phố, nhà thờ tộc, Khu phố cổ còn có nhiều di tích tôn giáo, tín ngưỡng có giá trị cao về kiến trúc, lịch sử, văn hóa, đa dạng về loại hình lẫn quy mô kiến trúc như: Đình, chùa, miếu, hội quán… và một số công trình đặc thù khác như cầu, giếng, chợ. Kiến trúc sư Hoàng Đạo Kính, nhà nghiên cứu Vũ Hữu Minh từng nhận xét: “Sự tập trung nhiều công trình tín ngưỡng khác nhau bên cạnh một tập hợp nhà ở đã hình thành nên khu phố thương mại, biểu hiện một lối sống đô thị phương Đông[2]. Về chủ thể tạo dựng, có thể chia thành hai nhóm chính: Công trình do cộng đồng người Việt tạo dựng và công trình do cộng đồng người Hoa, Minh Hương tạo dựng. Về kiến trúc, các di tích tín ngưỡng của người Việt thường có quy mô vừa phải, hình thức đơn giản hơn so với các di tích tín ngưỡng của người Hoa, Minh Hương. Đặc điểm chung nổi bật là hầu hết đều có kiểu thức nhà 3 gian, mái lợp ngói âm dương, bờ nóc, bờ chảy trang trí bằng thủ pháp đắp cẩn sành sứ và vẽ màu nhiều đề tài, đồ án tinh xảo như: lưỡng long tranh châu, lân, hoa, dây lá…

      Nghệ thuật chạm khắc cũng được phô diễn một cách tinh tế trên các cấu kiện gỗ, hệ vách gỗ mặt tiền và các khám thờ, tượng thờ, bài vị, các vật dụng trang trí nội thất. Tuy nhiên, trong di tích tín ngưỡng của người Việt, màu sắc tự nhiên của các cấu kiện gỗ được coi trọng, giữ nguyên, chỉ quét các chất bảo vệ trên bề mặt như luyn hoặc vecni, ít chi tiết chạm khắc trang trí hơn, nội thất đơn giản, gợi không khí u trầm, thiêng liêng. Với di tích tín ngưỡng của người Hoa, Minh Hương (tiêu biểu nhất là các hội quán), các cấu kiện gỗ thường được chạm trổ cầu kỳ, sơn phết nhiều màu sắc sặc sỡ với các màu chủ đạo như: Đỏ, trắng, vàng, xanh ngọc… kết hợp với nhiều hoành phi, liễn đối sơn son thếp vàng làm cho không gian nội thất luôn tươi mới, sinh động.

     Có thể nói rằng, các di tích tín ngưỡng trong Khu phố cổ do người Việt hay người Hoa, Minh Hương tạo dựng đều có những nét tương đồng, có sự ảnh hưởng qua lại, và đều có sự góp sức tạo dựng của những bàn tay tài hoa của người Việt trong các lĩnh vực điêu khắc, kiến trúc, xây dựng. Các công trình tín ngưỡng này, cùng với những ngôi nhà gỗ (nhà phố, nhà thờ tộc) tuy có công năng, niên đại xây dựng khác nhau nhưng cùng tồn tại trong diễn trình lịch sử, trải qua các biến thiên của văn hóa và xã hội, có sự hòa quyện về cảnh quan kiến trúc, giúp hình thành nên diện mạo kiến trúc đô thị thương cảng, góp phần làm nên giá trị nổi bật toàn cầu của Di sản văn hóa thế giới Khu phố cổ Hội An.

     Để nhận xét một cách tổng quan về di sản kiến trúc ở Khu phố cổ Hội An, xin được mượn lời của cố kiến trúc sư Ba Lan - Kazimierz Kwiatkowski: “Vẻ đẹp không trùng lặp chứa đựng trong các phố phường lịch sử, sự phong phú của các thể dáng kiến trúc, sự hoàn hảo của nghệ thuật chạm khắc trong nội thất các di tích kiến trúc tạo nên cho phố cổ Hội An những đặc điểm nổi bật trong một không gian riêng biệt. Những đặc điểm này đưa quần thể di tích phố cổ lên vị trí hàng đầu trong danh mục các di tích văn hóa của Việt Nam và cả trong kho tàng di sản văn hóa nhân loại[3].
 
[1] Nguyễn Quốc Hùng (1998), “Vài nét về di tích trong Khu phố cổ Hội An”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật (170), trang 42.
[2] KTS. Hoàng Đạo Kính, Vũ Hữu Minh, “Phân tích và đánh giá hiện trạng di tích kiến trúc cổ Hội An”, Ủy ban quốc gia Hội thảo quốc tế về Đô thị cổ Hội An (1991), Đô thị cổ Hội An, Nxb Khoa học xã hội, trang 353.
[3] Kazimierz Kwiatkowski (1991), “Các liên hệ kinh nghiệm của Ba Lan cho công trình tu bổ, bảo vệ phố cổ Hội An”, Đô thị cổ Hội An, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, trang 305.

Tác giả: Trần Thanh Hoàng Phúc

Nguồn tin: Trung tâm Bảo tồn Di sản Văn hóa Thế giới Hội An

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết
liên kết web
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây