Mộ ông Trần Ngọc Dao

Thứ năm - 29/05/2025 23:20
     Cách di tích Khổng Tử miếu Hội An khoảng hơn 200m về phía đông bắc là nơi yên nghỉ của vị đại quan triều Nguyễn - Binh bộ tham tri Trần Ngọc Dao. Nơi đây thuộc khối Lâm Sa, phường Cẩm Phô, thành phố Hội An, nguyên là xứ Tu Lễ, ấp Tu Lễ, làng Cẩm Phô, tổng Phú Triêm Hạ. Làng Cẩm Phô xưa là một trong những làng xã được thành lập khá sớm ở Hội An trong lịch sử. Thời nhà Nguyễn, xã Cẩm Phô bao gồm các ấp Tu Lễ, Xuân Lâm, Xuân Mỹ (nay thuộc phường Tân An), Trường Lệ (nay thuộc phường Cẩm Châu) và các châu: Xuyên Trung, Châu Trung, Hà Trung (các châu này nay thuộc phường Cẩm Nam), về sau còn có thêm các ấp Trung Tín, Xuân Quang (nay thuộc phường Tân An).
 
mo ong tran ngoc giao
Mộ ông Trần Ngọc Dao - Ảnh: Hồng Việt

     “Căn cứ vào gia phả và hồi cố của con cháu cụ Trần Ngọc Dao hiện sinh sống tại Hội An, nguyên gốc tộc Trần của cụ Trần Ngọc Dao ở phủ Tuyền Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Vào khoảng thế kỷ XVII, vị thuỷ tổ là Trần Văn Cồn sang Đại Việt mưu sinh và tạo lập nên nghề làm đồ thau thiết ở làng Mậu Tài, nay là xã Phú Mậu huyện Phú Vang, Thừa Thiên Huế. Vào thời kỳ hưng thịnh của đô thị thương cảng Hội An, một số vị tộc Trần ở làng Mậu Tài - Phú Vang vào lập nên làng Mậu Tài[1] làm nghề thau thiết ở Hội An.

     Ông Trần Ngọc Dao, tên thuỵ là Trang Khải, sinh năm Kỷ Mùi (1799) tại làng Mậu Tài - Phú Vang, thuộc đời thứ 8 tộc Trần. Thân phụ của ông là Trần Hiếu Luân. Ông Trần Ngọc Dao sinh hạ được ba người con trai, người con trai trưởng là Trần Bá Lượng. Kể từ đời ông Trần Bá Lượng trở về sau, cách đặt tên lót cho các thế hệ con cháu cũng được ông Trần Ngọc Dao quy định theo câu: Ngọc - Bá - Đăng - Đình - Thể - Thế”[2].  

     Tại khoa thi Hội năm Kỷ Sửu - Minh Mạng thứ 10 (1829), ông Trần Ngọc Dao đỗ Phó bảng[3] cùng với 4 vị khác (là các ông Phạm Văn Hợp, Dương Đăng Dụng, Phan Văn Nhã, Nguyễn Ngọc Thường). Sinh thời, ông Trần Ngọc Dao là người có đức, có tài, làm quan qua hai đời vua Minh Mạng và Thiệu Trị, từng trải trong Nam ngoài Bắc. Dòng chính trên bia mộ đề: “Cáo thụ Trung Phụng đại phu Binh bộ tham tri kiêm Đô sát viện Phó Hữu đô ngự sử Tuần phủ Định Tường đẳng xứ địa phương Đề đốc quân vụ kiêm lý lương hướng thuỵ Trang Khải Trần hầu chi mộ”, theo đó, ông Trần Ngọc Dao từng giữ các chức vụ: Chức tham tri[4] ở Bộ Binh[5] (từ năm Nhâm Dần, Thiệu Trị năm thứ 2 - 1842), kiêm giữ chức Phó Đô ngự sử[6] ở Viện Đô Sát[7], làm Tuần phủ[8] Định Tường[9] (Thiệu Trị năm thứ 4 - 1844) giữ đề đốc[10] quân vụ các địa phương kiêm lý vấn đề lương hướng. Trước đó ông từng đảm nhiệm chức vụ thự Bố chính Hưng Yên, đổi làm thự Bố chính Lạng Sơn (năm Minh Mệnh thứ 18 - 1837); tuần phủ Lạng – Bình (đến 1842).  

     Ông Trần Ngọc Dao mất năm Thiệu Trị thứ 4[11] (1844), hưởng hàm tòng Nhị phẩm, được ban thụy hiệu là Cáo thụ Trung Phụng đại phu.

     Dòng thượng khoản trên bia mộ ghi: “Thiệu Trị ngũ niên Ất Tỵ trọng thu nguyệt vọng hậu ngũ nhật”, hạ khoản: “Nam Bá Lượng, Trọng Vịnh, nữ Thị Uyển đồng lập thạch”. Bia do các con trai Bá Lượng, Trọng Vịnh và con gái Thị Uyển lập năm Thiệu Trị thứ 5 (1845), một năm sau khi ông Trần Ngọc Dao mất.

     Trong tư liệu Quảng Nam xã chí của Viện Viễn Đông Bác Cổ, khi điều tra về “Làng và phường Cẩm Phô” có nhắc đến cụ Bố chánh Trần Ngọc Dao như sau:

     “Sắc cho ông Bố chánh Trần Ngọc Dao người làng Mậu Tài, tổng Mậu Tài, huyện Phú Vang tỉnh Thừa Thiên đăng chức Gia Nghị đại phu, Lạng Sơn đẳng xứ Bố chánh xứ, trận Chánh Tam phẩm và cho cáo lão về quê, ngày 2 tháng 8 năm Minh Mạng thứ 19.


     Sắc cho ông Trần Ngọc Dao truy tặng thiệt thọ Binh bộ Tham tri, ngày 6 tháng 9 năm Thiệu Trị thứ 4.

     … Bố chánh Trần Ngọc Dao, nguyên quán Mậu Tài (Thừa Thiên) nhưng ngụ tại làng này đã quá lâu, hay đời Gia Long ông đã có trưng bộ tại làng này. Ông thi đậu Phó bảng năm Kỷ Sửu, làm quan từ Minh Mạng thứ 10 đến Thiệu Trị 5[12] thì mất. Ông còn con cháu trú ngụ tại Faifoo. Bằng sắc liên quan thì ông Trần Quyền giữ phụng sự. Mộ ông chôn tại xứ Hậu Xá (Cẩm Phô)[13].

 
ngoi mo ong tran ngoc dao
Mộ ông Trần Ngọc Dao - Ảnh: Hồng Việt

     Về kiến trúc, ngôi mộ có mặt tiền xoay hướng Bắc (hơi chếch về hướng Tây), được xây bằng gạch thẻ, đá ong, tô trát bằng vữa vôi. Mặc dù đã xuống cấp ở nhiều hạng mục, tuy nhiên tổng thể công trình vẫn còn khá hoàn chỉnh, quy mô ngôi mộ bề thế, kiểu dáng đẹp, nhiều chi tiết trang trí độc đáo phản ánh một số nét đặc trưng về mỹ thuật thời Nguyễn, là ngôi mộ duy nhất có xây nhà mộ để bảo vệ nấm mộ ở Hội An. Đặc biệt phần bia đá vẫn còn rất rõ nét với chữ khắc chìm và các hoa văn trang trí giàu tính thẩm mỹ. Tổng thể ngôi mộ gồm có: tường bao + trụ cổng, quynh, nhà mộ + nhà bia, bao bia + bia mộ, nấm mộ, bình phong hậu, diện tích khoảng 63,4m2. Các hạng mục được xây đối xứng qua một trục tưởng tượng (trục thần đạo) đi qua chính giữa ngôi mộ.  

     - Phía trước ngôi mộ có khoảng sân rộng với tường xây, các trụ xây bằng đá ong kết hợp gạch thẻ bao bọc xung quanh. Phía trước có hai trụ cổng tạo lối vào, thân trụ đắp gờ nổi trang trí, đầu trụ thuôn dần tạo hình chóp. Liên kết tường xây sân trước và quynh là tay ngai vươn rộng ra hai bên, đầu hình trụ tròn xoắn trôn ốc.

     - Quynh xây bằng đá ong bao quanh nấm mộ, kết hợp với bình phong hậu tạo chu vi hình chữ nhật, vát chéo ở 4 góc, nền sân láng vữa vôi. Phía trước bia mộ có hai trụ vuông tạo lối vào, thân trụ đắp vữa tạo gờ chỉ trang trí, đầu trụ thuôn dần tạo hình chóp.

 
 
     - Nhà mộ và nhà bia: liên kết nhau, có quy mô bề thế. Hình thức này ít bắt gặp tại các ngôi mộ khác ở Hội An. Tường nhà bia và tường nhà mộ xây dày, giữa tường gạch tạo các ô hộc hình cuốn vòm. Trong lòng nhà mộ và nhà bia cũng được xây hình cuốn vòm. Mặt tường ngoài được đắp gờ chỉ, tạo ô hộc trang trí. Hệ mái nhà bia và nhà mộ có hình thức giống nhau, gồm hai lớp mái giật cấp tạo cổ lầu (hệ mái nhà mộ vuông góc với hệ mái nhà bia), các góc mái vuốt cong nhẹ. Đuôi bờ chảy có tạo hình các cuộn mây nhỏ trang trí. Bờ nóc nhà bia có con giống trang trí. Chính giữa bờ nóc nhà mộ có con giống hình dơi và cuộn mây (?). Vị trí hai mái giao nhau giữa nhà mộ và nhà bia có máng xối thu nước, hai đầu máng xối tạo hình đầu thú với miệng thú là lỗ thoát.

     - Bao bia + bia mộ:

     Bao bia xây gạch thẻ, tiết diện hình chữ nhật, phía trước tạo hốc lõm để gắn bia. Mặt trước đắp gờ chỉ, tạo ô hộc trang trí. Phía trước bao bia có bệ đá bằng cẩm thạch, ba mặt (đứng) được chạm hoa văn gãy khúc cách điệu hình rồng, cuộn mây rất tinh xảo.

     Bia mộ làm bằng cẩm thạch, tiết diện hình chữ nhật được vát cong nhẹ ở hai góc bên trên, kích thước: 0,675m x 1,1m. Bia được chạm trổ rất đẹp, các họa tiết trang trí diềm bia chạm nổi (dương văn); chữ khắc chìm (âm văn). Diềm bia rộng 0,1m, trán bia trang trí mặt nhật, diềm bia trang trí rồng dây. Mặt bia đề các chức vụ mà cụ Trần Ngọc Dao từng đảm nhiệm và các nội dung khác liên quan đến niên đại ngôi mộ, người lập bia. Cụ thể:

     + Nguyên văn chữ Hán[14]:

大 南
紹 治 五 年 乙 巳 仲 秋 月 望 後 五 日
誥 授 中 奉 大 夫 兵 部 參 知 兼 都 察 院 右 副 都 御 史 廵 撫 定 祥 等 處 地 方 提 督 軍 務 兼 理 糧 餉 謚 莊 凱 陳 候 之 墓
男 伯 諒 仲 詠 女 氏 婉 仝 立 石

     + Phiên âm:

     Đại Nam

     Thiệu Trị ngũ niên Ất Tỵ trọng thu nguyệt vọng hậu ngũ nhật.

     Cáo thụ Trung Phụng đại phu Binh bộ Tham tri kiêm Đô sát Viện Hữu Phó đô ngự sử tuần phủ Định Tường đẳng xứ địa phương Đề đốc quân vụ kiêm lý lương hướng thụy Trang Khải Trần hầu chi mộ.

     Nam Bá Lượng, Trọng Vịnh, nữ Thị Uyển đồng lập thạch.

     - Nấm mộ: thấp, có dạng hình hộp chữ nhật được vát cong nhẹ ở mặt trên, hình thức đơn giản.

     - Bình phong hậu: xây bằng đá ong và gạch thẻ, tô trát vữa vôi. Khung bao bình phong tạo hình cuốn thư, mặt bình phong không trang trí (hoặc trước đây có tô vẽ trang trí, nay bị bong mờ hoàn toàn, không nhận biết được). Góc giao giữa quynh và bình phong hậu trang trí khối xây tạo hình cuộn mây (chi tiết này không thật sự rõ nét do vữa tô bị bong tróc).

     Mộ ông Trần Ngọc Dao được tạo lập năm 1845, đến nay đã được 180 năm. Di tích góp phần chứng tỏ vai trò, vị thế, những đóng góp của ông lúc sinh thời với triều đại phong kiến nhà Nguyễn. Ngôi mộ gồm nhiều hạng mục, được xây dựng với tỉ lệ kiến trúc hài hòa, cân đối, mang sắc thái nghệ thuật địa táng của người Việt. Đây là một trong số ít ngôi mộ có xây nhà mộ và nhà bia để bao che cho nấm mộ, bia. Có thể nói mộ ông Trần Ngọc Dao là một điển hình về nghệ thuật kiến trúc mộ hợp chất hiện còn ở Hội An. Bên cạnh đó, kiểu thức kiến trúc, quy mô ngôi mộ có thể xem là tiêu biểu cho kiến trúc mộ táng của các vị quan lại thời phong kiến (triều Nguyễn), góp phần làm phong phú, đa dạng các loại hình di tích kiến trúc nghệ thuật ở Hội An.

*Tài liệu tham khảo:
1. Viện Sử học – Viện Khoa học Xã hội Việt Nam (2007), Đại Nam thực lục, Nxb Giáo dục.
2. Trung tâm Quản lý Bảo tồn Di sản Văn hóa Hội An (2020), Làng xã ở Hội An qua tư liệu Địa bạ triều Nguyễn và Quảng Nam xã chí, Nxb Đà Nẵng.
3. Đỗ Văn Ninh (2002) – Viện Sử học, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, Từ điển chức quan Việt Nam, Nxb Thanh Niên.
4. Võ Hồng Việt (2012), Binh bộ tham tri Trần Ngọc Dao, nguồn: https://hoianheritage.net 
5. Thái Kiều Vi (2019), Ngôi mộ lạ của vị quan triều Nguyễn, nguồn: https://baodanang.vn
 
[1] Trung tâm Quản lý Bảo tồn Di sản Văn hóa Hội An (2020), Làng xã ở Hội An qua tư liệu Địa bạ triều Nguyễn và Quảng Nam xã chí, Nxb Đà Nẵng, trang 192, phần “Làng Sơn Phong có ghi chép rằng: “… Trong làng này có một nhà thờ làm từ Thành Thái nguyên niên, nhà này thờ chung 6 họ những người làng Mậu Tài, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Hồi trước không biết từ đời nào, có sáu ông làng ấy vào đây làm ăn, sản sinh ra và truyền lại một nghề đặc biệt là kéo thau (kéo thau có nghĩa là làm thành những sợi bằng thau để làm lưỡi câu)”.
[2] Dẫn theo Võ Hồng Việt (2012), Binh bộ tham tri Trần Ngọc Dao, nguồn: https://hoianheritage.net
[3] Theo Viện Sử học – Viện Khoa học Xã hội Việt Nam (2007), Đại Nam thực lục – Tập 2, Nxb Giáo dục, trang 831.
[4] Theo Đỗ Văn Ninh (2002) – Viện Sử học, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, Từ điển chức quan Việt Nam, Nxb Thanh Niên, trang 100:
Binh bộ tham tri là tên chức quan thuộc Bộ Binh thời Nguyễn. Đặt Tả, Hữu tham tri, là phó chức của Thượng thư, đứng trên Tả, Hữu thị lang. Trật tòng nhị phẩm. Trước thời Nguyễn không có.
[5] Theo Đỗ Văn Ninh, sđd, trang 99:
Bộ Binh giữ việc binh nhung, quân cấm vệ, xe ngựa, đồ nghí trượng, khí giới, giữ việc biên giới, lính thú, nhà trạm, phố sá, nơi hiểm yếu, việc khẩn cấp, tuyển dụng chức võ. Biên chế Bộ Binh thời Nguyễn có: 1 Thượng thư, 2 Tả hữu tham tri, 2 Tả hữu thị lang, 1 Lang trung, 4 Viên ngoại lang, 5 Chủ sự, 5 Tư vụ, 10 Chính bát phẩm thư lại, 10 Chánh cửu phẩm thư lại, 70 Vị nhập lưu thư lại.
[6] Theo Đỗ Văn Ninh, sđd, trang 494:
Phó đô ngự sử là Chức tá nhị của Đô ngự sử … Chức này xếp vào cuối hàng Tả thị lang, trật Chánh tứ phẩm.
[7] Theo Thái Kiều Vi (2019), Ngôi mộ lạ của vị quan triều Nguyễn, nguồn: https://baodanang.vn:
Theo sách Đại Nam thực lục, dưới triều Nguyễn, Đô sát viện là cơ quan tối cao, có trọng trách thay mặt vua giám sát và kiến nghị mọi hoạt động của quan lại các cấp, việc chấp hành pháp luật cũng như các quy tắc của triều đình ban hành từ Trung ương đến địa phương. Là cơ quan độc lập, được vua trực tiếp điều hành, không phụ thuộc vào bất kỳ cơ quan nào trong hoạt động quyền giám sát, góp phần làm trong sạch bộ máy quan lại triều đình.
Đô Sát viện có 5 quyền hạn chủ yếu là: Quyền vạch rõ những vi phạm, tội lỗi từ các quan lại đến hoàng thân, hoàng tử gọi là quyền đàn hạch; quyền được phép tấu trình trực tiếp với vua; quyền ghi chép lời nói, hành động của vua và các quan lại trong những ngày hội triều, nghe chính sự để nộp cho Quốc sử quán làm tư liệu; quyền kiểm tra hoạt động của các bộ, nha trong triều và quyền phúc duyệt các bản án. Quan lại thuộc các khoa, đạo của Đô sát viện hoạt động độc lập và tấu sớ của họ có thể được dâng thẳng lên vua mà không phải qua trưởng quan phê duyệt. Với một cơ quan được giao quyền hạn đặc biệt quan trọng như vậy nên việc bổ nhiệm các quan của Đô sát viện, nhất là đối với các chức quan chủ chốt được vua lựa chọn hết sức kỹ lưỡng để giao cho đúng người có đức, có tài.
[8]  Theo Đỗ Văn Ninh, sđd, trang 775: Tuần Phủ là chức quan thuộc hàng Đốc phủ các tỉnh thời Nguyễn (quan đầu tỉnh). Các tỉnh Phú Yên, Thuận Khánh, Biên Hòa, Định Tường, Hà Tiên, Trị Bình, Hà Tĩnh, Ninh Bình, Hưng Yên, Hưng Hóa, Lạng Bình, các quan này kiêm lĩnh cả ấn triện Bố chính, Án sát.
Tuần phủ lệ kiêm hàm Binh bộ tham tri, hàm Đô sát viện Hữu phó đô ngự sử. Thời Gia Long còn đặt chức Lưu thủ, Trấn thủ. Năm Minh Mạng thứ 12 (1831) bỏ các chức Lưu thủ, Trấn thủ mà đặt Tổng đốc, Tuần phủ. Lúc đầu ở nhiều tỉnh Tuần phủ còn lĩnh cả công việc Bố chính sứ, cũng gọi là Tuần vũ.
[9] Theo https://vi.wikipedia.org/wiki/Định_Tường:  
Định Tường là một tỉnh cũ ở miền Tây Nam Bộ (còn gọi là vùng Đồng bằng sông Cửu Long), Việt Nam và là một trong sáu tỉnh đầu tiên ở Nam Kỳ (Nam Kỳ lục tỉnh) vào thời Nhà Nguyễn độc lập, thành lập năm 1832 dưới triều vua Minh Mạng. Tỉnh Định Tường bị giải thể dưới thời Pháp thuộc và sau đó lại được chính quyền Việt Nam Cộng hòa tái lập, tồn tại trong giai đoạn 1956 - 1975. Mặc dù tỉnh Định Tường khi xưa có địa giới nằm ở vùng Tây Nam Bộ ngày nay, nhưng thời nhà Nguyễn, tỉnh này lại thuộc vùng Đông Nam Kỳ (tức miền Đông) cùng với hai tỉnh Biên Hòa và Gia Định.
… Vùng đất Định Tường trước đây thuộc nước Chân Lạp, nay thuộc địa bàn các tỉnh Tiền Giang, Bến Tre và Đồng Tháp ngày nay. Đất Định Tường phía Đông giáp Biển Đông, phía Đông Bắc và phía Bắc giáp tỉnh Gia Định, phía Tây Bắc giáp Cao Miên và tỉnh An Giang, phía Tây giáp tỉnh An Giang, phía Tây Nam và Nam giáp tỉnh Vĩnh Long. Tỉnh Định Tường nằm dọc theo bờ Bắc sông Tiền Giang theo hướng cánh cung Tây Bắc - Đông Đông Nam, từ Campuchia ra Biển Đông.
[10] Theo Đỗ Văn Ninh, sđd, trang 198:
Thời Nguyễn tại kinh đô Huế đặt Đề đốc kinh thành. Kinh thành đề đốc kiêm lý sự vụ phủ Thừa Thiên. Dưới có 1 Phủ doãn, 1 Phủ thừa và 2 ty Tả thừa và Hữu thừa. Thủy sư kinh kỳ cũng đặt Đô đốc, Đề thống, Hiệp lý đều một người. Đề đốc trật Chánh nhị phẩm. Ở địa phương, đặt Đề đốc hoặc Lãnh binh, nhưng chỉ cho trật Chánh tam phẩm.
[11] Theo Viện Sử học – Viện Khoa học Xã hội Việt Nam (2007), Đại Nam thực lục – Tập 6, Nxb Giáo dục, trang 651.
[12] Ông Trần Ngọc Dao mất năm Thiệu Trị thứ 4 (1844) nhưng bia mộ được lập năm Thiệu Trị thứ 5 (1845) nên có thể đây là nguyên nhân dẫn đến sự nhầm lẫn này.
[13] Trung tâm Quản lý Bảo tồn Di sản Văn hóa Hội An (2020), sđd, trang 197 – 199.
[14] Ký tự, phiên âm chữ Hán do Lê Thị Lưu – Chuyên viên P. Tư liệu & TTLT thực hiện.

Tác giả: Trần Thanh Hoàng Phúc

Nguồn tin: Trung tâm Quản lý Bảo tồn Di sản Văn hóa Hội An

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết
liên kết web
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây