Di sản tư liệu là bộ phận quan trọng trong kho tàng di sản văn hóa nhân loại. Thuật ngữ Di sản tư liệu được sử dụng trong Chương trình Ký ức thế giới do UNESCO khởi xướng vào năm 1992. Thuật ngữ này dùng để chỉ những tài liệu, tư liệu có giá trị đặc biệt, có ý nghĩa lâu dài cho cộng đồng, quốc gia và nhân loại, bao gồm văn bản, sách báo, bản vẽ, sơ đồ, bản đồ, bản nhạc, ảnh, phim, âm thanh, tư liệu số, vv… phản ánh ký ức tập thể và sáng tạo của con người qua các thời kỳ.
Theo Luật Di sản Văn hóa Việt Nam năm 2024, Di sản tư liệu là nội dung thông tin gốc được tạo lập có chủ ý của nhóm người hoặc cá nhân, thể hiện trực tiếp bằng ký hiệu, mật mã, chữ viết, hình vẽ, âm thanh, hình ảnh tĩnh hoặc động, dạng số và dạng thức khác trên vật mang tin gốc có thể tiếp cận và có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thẩm mỹ đối với ít nhất một cộng đồng, được kế thừa và trao truyền. Tính đến nay, UNESCO đã ghi danh 570 bộ sưu tập di sản tư liệu vào Chương trình Ký ức thế giới, trong đó Việt Nam có 4 Di sản tư liệu thế giới, 7 Di sản tư liệu Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương.
Khảo sát mộc bản chùa Phước Lâm năm 2013 - Ảnh: Hồng Việt
Hội An với bề dài lịch sử - văn hóa lâu đời và rực rỡ, đặc biệt nơi đây từng là thương cảng quốc tế sầm uất bậc nhất khu vực trong nhiều thế kỷ, cũng từng là trung tâm tỉnh lỵ của Quảng Nam qua thời gian dài nên bên cạnh hệ thống di sản văn hóa vật thể, phi vật thể rất đa dạng và độc đáo, thì di sản tư liệu cũng hết sức phong phú, đặc sắc. Từ kết quả khảo sát, thống kê trong thời gian qua cho thấy, sự phong phú, đặc sắc của hệ thống di sản tư liệu Hội An không chỉ về chất liệu vật mang tin (bằng giấy, gỗ, đá, kim loại, vv…), cách thức biểu hiện (như viết, vẽ, đục khắc, đắp, cẩn, in, vv…), loại hình tư liệu (như văn bản, sách báo, bản vẽ, sơ đồ, ảnh, phim, vv…) và thể loại tư liệu (như gia phả, địa bạ, văn bia, hoành phi liễn đối, sắc phong, khế ước, vv…), mà còn ở giá trị nội dung thông tin của tư liệu. Có thể thấy trong hệ thống di sản tư liệu Hội An, di sản tư liệu Hán Nôm được xem là bộ phận giàu có và phong phú hơn cả, cung cấp nhiều thông tin quan trọng làm sáng tỏ các giá trị lịch sử - văn hóa của mỗi công trình, di tích; lịch sử, sự nghiệp của cá nhân; lịch sử - truyền thống văn hóa của tập thể, cộng đồng và của Đô thị thương cảng quốc tế Hội An.
Nhận thức được vai trò, ý nghĩa quan trọng của hệ thống di sản tư liệu Hội An, trong nhiều thập niên qua, công tác sưu tầm, nghiên cứu, bảo tồn và phát huy di sản tư liệu Hội An được Trung tâm Bảo tồn Di sản Văn hóa Thế giới Hội An đặc biệt quan tâm và đạt nhiều kết quả, đã tạo lập được kho tư liệu thô và số với hàng chục nghìn trang tư liệu.
Kết quả nổi bật trước hết là về di sản tư liệu Hán Nôm. Đến nay Trung tâm đã sưu tầm, lưu trữ hơn 100 mộc bản và khoảng 700 bản in mộc bản tại các ngôi cổ tự ở Hội An như Vạn Đức, Chúc Thánh, Phước Lâm; 2580 trang tài liệu về xã Minh Hương; 60 bản sắc và 240 bản sao nội dung sắc phong; gần 4000 trang bản sao tư liệu địa bạ các làng xã; 1600 trang bản sao gia phả các tộc họ; 2560 trang tư liệu các gia đình; 370 bản rập văn bia; 270 trang bản sao tư liệu Châu bản triều Nguyễn liên quan đến Hội An và hàng nghìn file ảnh chụp loại tư liệu này… Để bảo tồn các mộc bản quý tại chùa Phước Lâm, năm 2015, Trung tâm cũng đã hỗ trợ 2 tủ để lưu trữ. Công tác dịch thuật, phát huy nguồn di sản tư liệu Hán Nôm Hội An được thực hiện thường xuyên. Đặc biệt, từ năm 2014 đến nay, qua xử lý đã tuyển chọn, dịch thuật, biên soạn, xuất bản 09 ấn phẩm theo từng chủ đề phục vụ nhu cầu nghiên cứu, tìm hiểu của các nhà nghiên cứu và công chúng như: Di sản Hán Nôm Hội An, Tập 1 - Văn bia in năm 2014, Tập 2 - Tư liệu lưu trữ của dòng họ Nguyễn Tường in năm 2016, Tập 3 - Tư liệu xã Minh Hương in năm 2017, Tập 4 - Hoành phi - liễn đối in năm 2019, Tập 5 - Tư liệu lưu trữ trong các gia đình, dòng họ” in năm 2019, Tập 6 - Sắc phong in năm 2021 và ấn phẩm Làng xã ở Hội An qua tư liệu Địa bạ triều Nguyễn và Quảng Nam xã chí in năm 2020, Hội An qua châu bản triều Nguyễn in năm 2021, 250 năm phong trào Tây Sơn nhìn từ Hội An in năm 2021. Những ấn phẩm này vừa giúp khoả lấp những khoảng trống về lịch sử - văn hóa Hội An, vừa khẳng định rõ nét hơn những giá trị nổi bật toàn cầu của Di sản văn hóa thế giới Đô thị cổ Hội An. Thông qua các phim tư liệu, hoạt động trưng bày bảo tàng và các triển lãm, trưng bày chuyên đề với các chủ đề như “Mỹ thuật Hội An thời Nguyễn qua thác bản văn bia và bia mộ”, “Nét chạm thời gian”,… nhiều di sản tư liệu Hán Nôm Hội An đã được giới thiệu rộng rãi đến công chúng, lan toả, quảng bá những giá trị tốt đẹp đến bạn bè gần xa.
Ngay sau hội thảo quốc gia về Đô thị cổ Hội An năm 1985, di sản tư liệu chữ Quốc ngữ, Pháp văn và các bản đồ, sơ đồ, tư liệu ảnh xưa đã được quan tâm sưu tầm, phát huy nhằm giúp nhận diện bức tranh lịch sử văn hoá Hội An từ cuối thế kỷ XIX về sau này, nhất là lịch sử đấu tranh cách mạng của quân và Nhân dân Hội An. Nguồn tư liệu này giữ vai trò quan trọng để hình thành Phòng trưng bày “Truyền thống Cách mạng Hội An” và không gian “Hội An từ gian khó đi lên”.
Là trung tâm tỉnh lỵ của Quảng Nam trong thời gian dài, hoạt động nhiếp ảnh ở Hội An có sự phát triển nở rộ với đội ngũ nhiếp ảnh đông đảo và có nhiều hiệu ảnh nổi tiếng như Thiên Chơn Cát, Tiêu Nhiên, Lệ Ảnh, Vĩnh Tân, Huỳnh Sau, Huỳnh Sỏ, Mê Linh, Nhật Quang, Hoàng Nam, Kim Đồng, Vũ Hùng, Hồng Ngọc, vv… Chính vì vậy, Hội An còn lưu giữ được kho di sản tư liệu ảnh xưa khá phong phú về phong cảnh, di tích kiến trúc, nghề truyền thống, ẩm thực, phong tục tập quán, lối sống, trang phục và chân dung rất có giá trị. Hiện nay, Trung tâm đã sưu tầm và sao chụp, lưu trữ số hơn 1000 file ảnh về Hội An trước năm 1975. Bộ sưu tập này có ý nghĩa rất lớn giúp nhận diện một cách sinh động, chân thực về Hội An từ đầu thế kỷ 20 đến năm 1975, giúp tìm hiểu, nghiên cứu, so sánh sự thay đổi của Hội An hiện nay so với trước đây cũng như nghiên cứu phục hồi những giá trị của di tích, phong tục tập quán tốt đẹp xưa. Giá trị của ảnh Hội An xưa đã được trưng bày, giới thiệu tại các bảo tàng chuyên đề ở Hội An, qua các cuộc trưng bày, triển lãm trực tiếp và online như “Hội An xưa”, “Trang phục Hội An xưa qua ảnh”, và được biên tập giới thiệu trong nhiều tập sách chuyên khảo về lịch sử - văn hoá Hội An, đặc biệt là ấn phẩm “Hội An ngày ấy - bây giờ”.
Trong bối cảnh mới sau khi thực hiện chủ trương sáp nhập đơn vị hành chính, cùng với những quy định cụ thể của Luật Di sản văn hoá 2024 và Thông tư 04/2025/TT-BVHTTDL, công tác bảo tồn và phát huy di sản tư liệu Hội An cần tiếp tục thực hiện bài bản và chuyên sâu hơn do tính chất đặc thù của các di sản tư liệu vốn rất mong manh, dễ bị tác động và hủy hoại bởi thời gian, môi trường, thiên tai, hỏa hoạn và mối mọt,... Vì vậy, trong thời gian tới, Trung tâm Bảo tồn Di sản Văn hoá Thế giới Hội An sẽ tiếp tục phối hợp với các địa phương và cơ quan chuyên môn tiến hành sư tầm, kiểm kê lập danh mục, lập hồ sơ lưu trữ, xây dựng hồ sơ trình cấp thẩm quyền xem xét đưa vào Danh mục quốc gia về di sản tư liệu. Đồng thời với đó sẽ xây dựng các phương án, đề án bảo tồn, phát huy hiệu quả hơn, trong đó chú trọng đầu tư nguồn nhân lực, hệ thống trang thiết bị bảo quản và xây dựng cơ sở dữ liệu số, tuyển chọn và giới thiệu, quảng bá di sản tư liệu Hội An qua các ấn phẩm sách và truyền thông đa phương tiện.
Mộc bản Triều Nguyễn (2009), 82 bia đá các khoa thi Tiến sĩ thời Lê - Mạc (2011), Châu bản Triều Nguyễn (2017), Bộ sưu tập của nhạc sỹ Hoàng Vân (2025).
Mộc bản kinh phật chùa Vĩnh Nghiêm (2012), Hệ thống văn thơ trên kiến trúc cung đình Huế (2016), Mộc bản trường học Phúc Giang (2016), Hoàng hoa sứ trình đồ (2018), Bia Ma Nhai tại Danh thắng Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng (2022), Văn bản Hán Nôm làng Trường Lưu, Hà Tĩnh (2022), Những bản đúc nổi trên chính đỉnh đồng ở Hoàng cung Huế (2024).
Trong Luật Di sản văn hoá năm 2024, lần đầu tiên di sản tư liệu được Luật hoá thành một chương riêng với 11 điều (từ điều 53 đến điều 63) quy định cụ thể về bảo vệ và phát huy giá trị di sản tư liệu như Phân loại và tiêu chí nhận diện di sản tư liệu; Kiểm kê di sản tư liệu và Danh mục kiểm kê di sản tư liệu; Danh mục và tiêu chí ghi danh, ghi danh bổ sung di sản tư liệu; Ghi danh, ghi danh bổ sung và hủy bỏ ghi danh di sản tư liệu; Bảo quản di sản tư liệu; Nghiên cứu và sưu tầm di sản tư liệu; Phục chế di sản tư liệu; Hoạt động quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản tư liệu; Đề án, dự án, kế hoạch và báo cáo định kỳ về bảo vệ và phát huy giá trị di sản tư liệu sau khi được ghi danh; Đưa di sản tư liệu được ghi danh đi trưng bày, nghiên cứu hoặc bảo quản ở trong nước, nước ngoài; đưa di sản tư liệu có nguồn gốc Việt Nam từ nước ngoài về nước; Bản sao di sản tư liệu.