Trên phương diện vật thể, thời gian gần đây, những bằng chứng về mối quan hệ giao lưu kinh tế - văn hóa Nhật - Việt, Việt - Nhật được tìm thấy ngày càng nhiều tại Hội An. Cùng với các nguồn tư liệu thư tịch, những bằng chứng vật thể này góp phần củng cố tính xác thực lịch sử về sự phát triển mạnh mẽ của các hoạt động mậu dịch do người Nhật tiến hành tại Hội An vào thế kỷ XVII. Trong đó, đáng kể hơn cả là sự phát hiện một số lượng lớn gốm sứ Hizen và các loại tiền đồng Nhật Bản có khung niên đại trùng với thời điểm phát triển thịnh vượng của phố Nhật tại Hội An.
Đồng thời với hoạt động mậu dịch là quá trình giao lưu - tiếp xúc văn hóa. Quá trình giao lưu này chắc hẳn đã có những tác động nhất định đến các mặt đời sống xã hội tại Hội An nói riêng, Đàng Trong nói chung. Đánh giá cho được thực tế, mức độ và tác động của quá trình này là việc làm cần thiết, góp phần làm rõ hơn các vấn đề lịch sử - văn hóa liên quan đến quan hệ giao lưu Nhật - Việt, Việt - Nhật tại Hội An trong quá khứ, từ đó rút ra những bài học thiết thực để xây dựng quan hệ này hiện nay và cả tương lai.
Vào thế kỷ XVII, người Nhật đã được các chúa Nguyễn cho phép lập một khu cư trú ở Hội An. Khu cư trú này tài liệu của Nhật ghi là Nhật Bản đinh ( 日 本 町)(1). Chữ Đinh theo tiếng Nhật có nghĩa là phố xá. Năm 1640, trong bia Phổ Đà Sơn Linh Trung Phật xuất hiện từ Nhật Bản dinh, Tùng bản dinh. Dù tổ chức hành chính của khu cư trú này như thế nào thì đây cũng là sự xuất hiện của một thiết chế mới có tính lịch sử. Vào thời điểm bấy giờ, dưới tác động của mạng lưới mậu dịch hàng hải quốc tế đang diễn ra nhộn nhịp ở khu vực Đông Nam Á, một số tụ điểm mậu dịch của người Bồ, Hà Lan đã mọc lên ở các nước bản địa bằng nhiều con đường, trong đó có con đường áp đặt hoặc chiếm cứ. Khu cư trú của Nhật kiều ở Hội An với vai trò là một tụ điểm trung chuyển mậu dịch không ra đời bằng các con đường trên. Trước hết, nó là sản phẩm do sự nỗ lực hợp tác trên lĩnh vực mậu dịch của chính quyền Việt, Nhật. Các bức thư trao đổi giữa các chúa Nguyễn và chính quyền Nhật Bản đã thể hiện rõ nỗ lực này. Vì vậy, có thể nói rằng, quá trình giao lưu văn hóa Nhật - Việt tại Hội An được khởi đầu một cách chủ động và thiện chí, xét từ cả hai phía. Chính đặc điểm này đã đem lại cho quá trình giao lưu văn hóa Nhật - Việt tại Hội An những sắc thái riêng, độc đáo.
Mặt khác, sự hình thành khu phố Nhật đã tạo nên những chuyển biến mới trong đời sống văn hóa tại địa phương. Đối với Đàng Trong nói chung, Hội An nói riêng, đây là sự ra đời - gia nhập của một kiểu tổ chức và quản lý hành chính mới, có những nét khác biệt so với cách thức quản lý truyền thống của các chúa Nguyễn. Những phác thảo trong bức "Giao chỉ quốc mậu dịch độ hải đồ" cho thấy ở khu phố Nhật không có hàng rào bao bọc, lính canh và súng thần công như ở khu dinh trấn. Một dãy phố với những ngôi nhà gỗ khá quy mô nằm tiếp giáp với các vùng làng mạc cho thấy không gian của khu phố là không gian mở và không có các hình thức ngăn cách với các khu vực xung quanh.
Trong “Hành trình và truyền giáo”(2), linh mục Alexandre De Rhode cho biết tại Hội An có một khu vực buôn bán của Nhật kiều, do một người Nhật đứng đầu. Người đứng đầu này De Rhode gọi là “Gouuernuer” (nguyên bản tiếng La tinh). Không thấy De Rhode cũng như các tư liệu khác ghi chức tước kèm theo của nhân vật này, mặc dù, theo mô tả, ông ta giữ vai trò là một trưởng phố và rất có uy tín đối với chúa Nguyễn. Bia mộ của 3 thương nhân Nhật mất tại Hội An vào thế kỷ XVII, tư liệu về một số người Nhật khác có liên quan đến hoạt động mậu dịch tại Hội An trước đây đều không thấy ghi quan tước. Có thể người Nhật đã không tham gia vào bộ máy chính quyền của các chúa Nguyễn. Đây là điều khác biệt so với trường hợp một số Hoa kiều cùng thời - những người đã được ban tước hầu; làm đến chức cai phủ tàu trong bộ máy quan lại của chúa Nguyễn và những quan tước này được ghi rất rõ trong bia mộ của họ.
Sự tồn tại của khu phố Nhật với kiểu quản lý mang tính tự trị như đã đề cập là một hiện tượng xã hội mới mẻ và điều này đã có tác động nhất định đến đời sống hàng ngày của cư dân địa phương. Tác động dễ thấy nhất diễn ra ở quan hệ hôn nhân - gia đình. Những cuộc hôn nhân Việt - Nhật đã được tác hợp. Những bà vợ Việt đã về chung sống với chồng trong khu phố Nhật và những bà vợ này đã giúp các ông chồng Nhật một cách đắc lực trong hoạt động mậu dịch. Việc họ đường hoàng đứng tên cùng các ông chồng Nhật giống như những gia đình Việt, Hoa khác trong bia Phổ Đà Sơn Linh Trung Phật cho thấy từ thế kỷ XVII, quan hệ hôn nhân khác quốc tịch đã diễn ra khá tự nhiên ở phố Hội An. Tấm bia này cũng cho thấy những cuộc hôn nhân Nhật - Việt diễn ra phổ biến hơn các cuộc hôn nhân Nhật - Hoa, dù vào thời điểm bấy giờ khu phố của Hoa kiều cũng đã hình thành tại Hội An. Có thể xác định gốc Việt của các bà vợ thương nhân Nhật trong bia với các tên Nôm đặc trưng như Nước, Nụ, Mặn, Nở... Có những bà vợ Việt vẫn tiếp tục giữ liên lạc và làm tròn các việc hiếu hỉ đối với gia đình nhà chồng tại Nhật sau khi chồng mất, đến nỗi một nhà nghiên cứu Nhật Bản khi phát hiện việc này đã phải thốt lên "thực là một phụ nữ hết sức chu đáo"(3). Rất tiếc, cho đến nay, chúng ta chưa đủ điều kiện để xác định hậu duệ của các cuộc hôn nhân Nhật - Việt này, mặc dù chúng ta biết chắc rằng đã có những đứa con được ra đời dưới mái những gia đình Nhật - Việt tại phố Hội An. Trường hợp ông Ngô Thuận (quan), con của ông Kadoya Shichirobei và bà Nguyễn Thị Diệu Thái (4) là ví dụ. Ngoài ra, ba bia mộ thương gia Nhật tại Hội An cũng cung cấp một số thông tin cần thiết về vấn đề này. Nội dung bia cho biết chúng do các người con đứng lập cho cha với các từ xưng hô đối với người quá cố là "Khảo", "Hiển khảo" (5). Mặt khác, kiểu thức trình bày nội dung các bia mộ này không có gì khác so với các bia mộ Việt, trừ phần ghi nguyên quán ở góc trên bia. Bia mộ ông Banjiro (chữ Hán là Phan Nhị Lang) có dòng chữ nhỏ bên trái ghi: "Hiếu nam Văn Công đồng phụng tự". Có thể hiểu đây là bia mộ do những người con trai tên là Văn, Công lập nên để thờ tự cha. Kết hợp nhiều nguồn tư liệu chúng ta không loại trừ khả năng những người con này là của một bà mẹ Việt lấy chồng Nhật. Ông này mất tại Hội An và những người con đã đứng ra làm mộ cho cha. Do tên của người này được ghi âm bằng chữ Hán là Phan Nhị Lang nên rất có thể những người con có tên trong bia sẽ lấy họ Phan. Hiện tượng dùng họ Việt ở một số hậu duệ Nhật - Việt là một thực tế cần lưu ý khi nghiên cứu quan hệ hôn nhân - gia đình tại Hội An.
Giao lưu văn hóa Nhật - Việt, Việt - Nhật cũng diễn ra khá sâu sắc ở lĩnh vực tôn giáo - tín ngưỡng. Tấm bia Phổ Đà Sơn Linh Trung Phật cho thấy một số Nhật kiều ở Hội An đã theo đạo Phật với các đạo hiệu bắt đầu bằng chữ Đạo, Viên giống như người Việt. Kiểu có đạo hiệu giống nhau như thế này chứng tỏ họ cùng chung một đạo phái. Còn lại, những người Nhật khác ở Nhật Bổn dinh (Hội An) hoặc ở nước Nhật Bản có tên trong bia Phổ Đà cho thấy họ là những người sùng mộ đạo Phật và rất tín ngưỡng Quan Thế Âm Bồ Tát. Vì vậy, họ đã góp tiền của để xây dựng cảnh Phật Phổ Đà ở động Hoa Nghiêm - Non Nước. Phổ Đà chính là nơi tu đạo của bồ tát Quan Thế Âm, vị bồ tát chuyên cứu khổ cứu nạn, nhất là đối với những tai nạn trên biển. Nét tín ngưỡng này rất gần gũi với tín ngưỡng của cộng đồng người Việt tại Hội An.
Việc phát triển đạo Thiên Chúa cũng được thực hiện thông qua quan hệ hôn nhân - gia đình ở khu phố Nhật tại Hội An. Bên cạnh những thương nhân Nhật theo đạo Phật còn có một bộ phận khác theo đạo Thiên Chúa. Tư liệu của linh mục Alexandre De Rhode cho biết, tại phố Nhật (Hội An) có một số thương nhân Nhật theo đạo Thiên Chúa lấy những bà vợ bản xứ không có đạo. Việc thuyết phục các bà này từ bỏ tín ngưỡng của mình để theo đạo là một việc làm không phải dễ dàng. Các ông chồng Nhật đã phải nhờ vào các giáo sĩ. De Rhode ghi: "Tàu Tây (Tây Ban Nha - ND) đã trẩy đi rồi thì tôi mừng lễ phục sinh trong tỉnh Quảng Nam, có rất đông giáo dân đến làm nhiệm vụ trong những ngày thánh. Từ đó tôi trở lại thành phố người Nhật gọi là Hội An (nguyên bản ghi Faifo). Ở đây Inhaxu rất thành công trong việc làm cho mấy người lương dân lấy chồng người Nhật có đạo. Những ông chồng này không sao làm cho các bà bỏ dị đoan được. Trong ít ngày Inhaxu đã thành công"(6). Dù chưa đủ tư liệu để tìm hiểu kỹ quá trình giao lưu Nhật - Việt ở lĩnh vực tôn giáo - tín ngưỡng tại Hội An vào thế kỷ XVII nhưng qua một số thông tin ít ỏi ở trên chúng ta có thể hình dung được phần nào mức độ và qui mô của quá trình này. Sự ảnh hưởng qua lại - hai chiều về tôn giáo - tín ngưỡng trong các gia đình Nhật - Việt là một thực tế lịch sử. Một số thương nhân Nhật đã chịu ảnh hưởng của các bà vợ bản xứ về tôn giáo - tín ngưỡng và ngược lại. Tư liệu cũng cho thấy quá trình này diễn ra một cách êm thấm, tự nhiên, không cưỡng ép.
Quá trình trao đổi hàng hóa cũng chính là quá trình trao đổi sản phẩm văn hóa, trao đổi kinh nghiệm và công nghệ. Điều này đã được phản ánh trong các nguồn tư liệu thư tịch và thư địa. Những bức thư giao hảo giữa chính quyền Nhật Bản và các Chúa Nguyễn thường ghi các sản vật quý mà hai bên tặng nhau, vừa để tỏ tình thân mật vừa để giới thiệu mặt hàng. Ghi chép của Nakashima Enju cho biết, vào đầu thế kỷ XVII, Chaya Shinrokuro đã đến Đàng Trong và dâng tặng Chúa Nguyễn áo ngũ sắc Nhật Bản. Chúa Nguyễn đã tặng lại một bức tượng Quan Âm tạc theo kiểu Ấn Độ. Bức vẽ của pho tượng này hiện lưu giữu tại chùa Jomyo (Nagova). Chaya ShinroKuro cũng đã từ Đàng Trong mang về Nhật một chú voi con. Bức tranh vẽ nơi cột chú voi này hiện vẫn còn ở Nhật(7). Từ Hội An, Đàng Trong, các thương nhân Nhật đã tiếp thu được một số kinh nghiệm và kỹ thuật ngành nghề của cư dân địa phương. Những kinh nghiệm và kỹ thuật này chắc chắn đã được vận dụng ở Nhật. Tại Isei Matsusaka, quê hương của thương nhân Kodoya Shichirobei, người mà chúng ta đã đề cập ở trên, hiện có một xưởng dệt vải bằng sợi bông khổ hẹp, công nghệ được mang về từ Việt Nam(8).
Do trải qua thời gian hơn 300 năm, kể từ khi phố Nhật ở Hội An ngưng hoạt động, các bằng chứng về quan hệ giao lưu - trao đổi kinh nghiệm, công nghệ Nhật - Việt tại Hội An đã chìm sâu vào ký ức của cư dân địa phương. Tuy vậy, trong thời gian gần đây, chúng tôi cũng đã may mắn tìm thấy một ít vết tích về chúng. Một bài vè dùng để hát ru con hoặc để trẻ em địa phương hát trong lúc vui chơi
còn lưu giữ một đoạn phản ảnh thực tế về sự có mặt của các mặt hàng Nhật Bản tại Hội An trước đây:
"Hàng trầu hàng cau, là hàng con gái,
Hàng bánh hàng trái, là hàng bà già,
Hàng bông hàng hoa, là hàng Nhựt Bổn ..."
Thích Đại Sán đến Hội An vào năm 1695, là lúc phố Nhật đã suy tàn, nhưng theo như ghi chép, vẫn có người đem đến biếu ông "một ít rau cải Nhật Bản"(9). Chúng tôi chưa xác định được đó là loại rau gì, nhưng chắc chắn nó có nguồn gốc Nhật Bản và được gieo trồng ở Hội An.
Tư liệu dân gian tại địa phương còn cho biết sự có mặt của loại "tương Nhật Bản". Đó là một loại tương phân biệt với tương Tàu (Trung Hoa), tương Ta (Việt). Các nhân chứng cao tuổi cho biết, loại tương này làm bằng đậu nành, nếp, muối. Mỗi lần làm khoảng 2 lít nước, không làm thành từng vại lớn. Khi ăn tương có mùi thơm, các hạt đậu cong, không nát.
Kết quả điều tra tư liệu dân gian cũng đã cho thấy hiện nay tại địa phương vẫn còn dùng tên gọi "trính Nhựt" để chỉ một kết cấu kiến trúc trong các ngôi nhà cổ Hội An. Tên gọi này do Nguyễn Bạt Tụy ghi lại đầu tiên trong bài khảo cứu "Những ngôi nhà xưa ở Quảng Nam" năm 1961(10). Kiểm tra tính xác thực của thông tin trên, chúng tôi đã dùng phiếu điều tra để phỏng vấn các thợ mộc cao tuổi tại địa phương. Chín trên mười lăm nhân chứng đã dùng tên gọi "trính Nhựt" hoặc "trính Nhựt Bổn" để chỉ cho cùng một kết cấu kiến trúc do chúng tôi đưa ra. Dù đó có phải là kết cấu mang đặc trưng phong cách kiến trúc Nhật hay không thì cách gọi như vậy cũng rất có ý nghĩa về giao lưu văn hóa, giao lưu công nghệ - kỹ thuật. Có thể đó là một kết cấu kiến trúc được người Nhật sử dụng rộng rãi tại Hội An trước đây và cư dân Hội An đã tiếp thu trực tiếp nó từ người Nhật.
Dấu ấn của quá trình giao lưu văn hóa Việt - Nhật, Nhật - Việt cũng được khắc họa rõ nét ở các ngôi mộ thương nhân Nhật tại Hội An. Dù khác quốc tịch nhưng các ngôi mộ này giống hệt mộ của cư dân địa phương cùng thời với chất liệu vôi hợp chất, nấm mộ hình yên ngựa ở giữa, quynh kiểu tay ngai bao quanh bên ngoài. Về bia mộ, như đã nói, chúng có hình dáng, chất liệu, cách bố trí nội dung tương tự với bia mộ Việt. Số lượng chữ trong các bia này cũng có điểm đáng lưu ý với hai bia có số lượng chữ của dòng chữ giữa là 7, bia còn lại là 11. Khảo sát các bia mộ của cư dân địa phương cùng thời chúng tôi thấy rằng, số lượng chữ của dòng giữa phổ biến là 7, 11, 15…đối với người quá cố là nam và 8, 12, 16… nếu là nữ. Ở đây có sự giống nhau về số lượng chữ giữa 3 bia mộ Nhật với các bia mộ cùng đối tượng của người Việt. Sự giống nhau này, theo chúng tôi không phải là ngẫu nhiên. Dường như chúng được khắc theo một quy định nào đó liên quan đến tục dựng bia mộ với số lượng chữ của dòng chính là 3 + N4 đối với nam và 4 - N1 đối với nữ (N có thể là 1, 2, 3, 4 hoặc 5).
Phủi lớp bụi thời gian hơn 300 năm, chúng tôi may mắn tìm thấy một số dấu tích, di tích vật thể, phi vật thể liên quan đến việc cư trú của người Nhật và quan hệ giao lưu với Nhật - Việt, Việt - Nhật hiện đang được bảo lưu tại địa phương. Cùng với các nguồn tư liệu khác, các dấu tích, di tích này góp phần minh chứng cho sự phát triển mạnh mẽ của thương cảng Hội An trong quá khứ, đặc biệt là hoạt động giao lưu - hội nhập văn hóa. Chúng đồng thời cũng cho thấy rằng, do được xây dựng trên nền tảng hữu nghị và thiện chí, nên quan hệ giao lưu - hội nhập văn hóa Nhật - Việt đã thực sự trở thành là một động lực thúc đẩy hoạt động kinh tế, văn hóa xã hội tại chỗ phát triển, đã để lại những dấu ấn đậm nét, góp phần làm phong phú diện mạo và định hình tính độc đáo về văn hóa của vùng đất Hội An.
Chú thích:
(1) Theo bức "Giao chỉ quốc mậu dịch độ hải đồ" hiện lưu trữ ở đền Jomyo thành phố Nagoyo, Nhật Bản.
(2) Alexandre De Rhode - hành trình và truyền giáo, bản tiếng Việt, Ủy ban Đoàn kết Công giáo thành phố Hồ Chí Minh xuất bản, 1994, tr 90,91.
(3) Ogura Sadao - Người Nhật thời Châu Ấn thuyền, Tokyo, 1985, tr 97.
(4) Xem bia Phổ Đà Sơn Linh Trung Phật đã dẫn.
(5) Là một từ gốc Hán được người Việt sử dụng rộng rãi để chỉ người cha đã quá cố.
(6) Alexandre De Rhode, Sđd, tr. 183
(7), (8) Dẫn theo Nguyễn Đình An, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 8/1998. tr57
(9) Thích Đại Sán - Hải ngoại kỷ sự, UB phiên dịch, Viện Đại học Huế xuất bản, 1963, tr. 169
(10) Bài đã dẫn, Tạp chí văn hóa Nguyệt san số 60, Sài Gòn xuất bản tháng 5/1981.
Chú ý: Việc đăng lại bài viết trên ở website hoặc các phương tiện truyền thông khác mà không ghi rõ nguồn http://hoianheritage.net là vi phạm bản quyền