Tín ngưỡng thờ nữ thần là một trong những loại hình tín ngưỡng phổ biến trong xã hội Việt Nam, tín ngưỡng tôn thờ hình tượng người phụ nữ trên cơ sở truyền thống coi trọng vai trò người mẹ trong gia đình và xã hội người Việt.
Dưới thời kỳ các chúa Nguyễn (cuối thế kỷ XVIII) và triều Nguyễn, Cù Lao Chàm có tên gọi là phường Tân Hợp thuộc tổng Thanh Châu, huyện Hòa Vang, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Hiện nay, Cù Lao Chàm là xã đảo Tân Hiệp thuộc thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam.
Trong quá trình tổ chức bản thảo sách “Di sản Hán Nôm Hội An, Tập 6 - Sắc phong”, chúng tôi có cơ may tiếp cận được một bản sao sắc phong thần Phi Vận tướng quân Nguyễn Phục. Qua khảo sát một số di tích tín ngưỡng ở Hội An, chúng tôi nhận thấy hiện có ít nhất 4 di tích thờ vị nhân thần này. Vậy Phi Vận tướng quân Nguyễn Phục là ai? Ở Hội An tín ngưỡng thờ Phi Vận tướng quân Nguyễn Phục như thế nào? Bài viết này sẽ góp phần làm sáng tỏ thêm về vấn đề này.
Với mục tiêu phục hồi phong tục dựng cây nêu ngày Tết trên địa bàn thành phố, tạo nên sắc màu vui tươi, ấm cúng, trang trọng trong dịp xuân về; tôn vinh, đồng thời giới thiệu giá trị văn hóa truyền thống của Hội An với du khách trong nước và quốc tế, UBND thành phố đã có chủ trương phát động phục dựng cây nêu trên địa bàn thành phố tại Kế hoạch số 2309/KH-BTC, ngày 12/12/2011, về hoạt động Hội Tết dân tộc Nhâm Thìn -2012.
Đậu hũ còn gọi là tào/tàu phù, tào hũ, tào phớ, là món ăn ngọt dân dã, phổ biến ở nhiều địa phương trong cả nước. Ở mỗi nơi có tên gọi, cách chế biến khác nhau. Người Hà Nội gọi là tào phớ, Hải Phòng gọi là tào pha, Nghệ An gọi là tào phá, ở miền Trung gọi là đậu hũ, người miền Nam gọi là tào hũ,… Dù tên gọi ở mỗi vùng miền khác nhau nhưng đây là món ăn được nhiều người ưa thích.
Hội An là vùng đất có bề dày lịch sử văn hóa văn nghệ dân gian với nhiều loại hình đặc sắc, hấp dẫn như bài chòi, hò khoan, hát bội, sắc bùa, hò giã gạo, hò giã vôi...
Tư liệu Hán Nôm là một trong những nguồn tư liệu thành văn rất quan trọng để nghiên cứu về lịch sử - văn hóa Việt Nam nói chung, về Hội An, Quảng Nam nói riêng từ giữa thế kỷ XX trở về trước.
Làng Phước Trạch xưa thuộc tổng Thanh Châu, huyện Hòa Vang, nay thuộc phường Cửa Đại, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam. Hiện chưa có tư liệu xác định chính xác quá trình thành lập làng Phước Trạch.
Chùa Cầu, tương truyền do thương nhân Nhật Bản ở Hội An xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ XVI - đầu thế kỷ XVII, nên còn có tên gọi là cầu Nhật Bản.
Ở Hội An nói riêng, Việt Nam nói chung, quan hệ huyết thống là mối quan hệ cơ bản nhất, quan trọng nhất và chặt chẽ nhất đối với con người trong cộng đồng làng - xã.
Từ cuối thế kỷ XV - đầu thế kỷ XVI, trên con đường di dân về phương Nam, một bộ phận cư dân có nguồn gốc từ vùng Bắc Trung bộ mà chủ yếu là Thanh Hóa, Nghệ An đã đến khai khẩn lập nên làng Thanh Hà ở Hội An, khai cơ lập nghiệp, hình thành nghề gốm ở làng Thanh Hà nổi tiếng ở miền Trung.
Kho tàng truyện kể dân gian sưu tầm được ở Hội An khá phong phú và bao gồm nhiều thể loại từ thần thoại, truyền thuyết đến cổ tích, truyện ngụ ngôn, truyện cười, giai thoại,… Trong đó truyện kể liên quan đến biển đảo ở Hội An chiếm số lượng đáng kể.
Lê Quý Đôn, tự là Doãn Hậu, hiệu Quế Đường, quê ở làng Duyên Hà, huyện Duyên Hà, tỉnh Thái Bình. Lê Quý Đôn là một trong những nhà bác học nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam. Ông đã để lại một di sản văn hóa đồ sộ bao gồm các khảo cứu, nghiên cứu rất có giá trị trên nhiều lĩnh vực… Trong đó nhiều tác phẩm, công trình đã được dịch và in ấn, xuất bản như Phủ biên tạp lục, Đại Việt thông sử, Kiến văn tiểu lục, Vân đài loại ngữ … Nội dung dưới đây của bài viết xin thông tin một số sản vật - thổ sản ở Hội An, Quảng Nam được ghi chép, mô tả trong tác phẩm Phủ biên tạp lục do Viện Sử học viết lời giới thiệu, Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin xuất bản năm 2007.
Làng Thanh Hà là một trong những làng Việt được hình thành sớm ở Hội An. Dưới triều Nguyễn, làng Thanh Hà có diện tích rộng lớn với 13 xóm ấp trải rộng từ bờ bắc sông Thu Bồn đến dọc sông Để Võng và giáp biển.
Thanh Tây là một trong những làng thuộc Thanh Châu xưa. Hiện chưa có tư liệu để xác định chính xác quá trình thành lập làng.
Đến nay có rất nhiều bài viết, công trình nghiên cứu về nhà nho Nguyễn Thuật và các trước tác văn chương của ông đã được xuất bản trên sách, báo, tạp chí, tiêu biểu như: sách Hà Đình Nguyễn Thuật tác phẩm (2005), Sống đẹp Hà Đình (2009) của Nguyễn Q. Thắng; bài viết Hà Đình Nguyễn Thuật: nhà văn hóa đất Quảng của Dương Văn Út xuất bản trên tạp chí Xưa Nay (2011), hay Hà Đình Nguyễn Thuật, một con người văn chương, nghệ thuật của nhà nghiên cứu Phùng Tấn Đông đăng trên Tạp chí Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Nam (2015)[1] ... Gần đây, tác giả Nguyễn Hoàng Thân trong bài viết Nhà nho Nguyễn Thuật với các thiết chế tôn giáo tín ngưỡng ở Việt Nam và Trung Quốc in trên Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử xứ Quảng số 11 (2018) đã hệ thống, giới thiệu một số tác phẩm, trước tác của nhà nho Nguyễn Thuật liên quan đến các thiết chế văn hóa tôn giáo tín ngưỡng, trong đó có đề cập đến hai tác phẩm bia ký ở Hội An do nhà nho Nguyễn Thuật biên soạn, phủ chính. Qua khảo sát, tiếp cận tư liệu thực địa, bài viết này xin thông tin đến bạn đọc nội dung hai tác phẩm bia ký trên để cùng chia sẻ, cảm nhận về văn chương, con người tài hoa, đức độ “xứng đáng làm mẫu mực cho vạn thế”[2] này.
Khu phố cổ Hội An là một phức hợp đa dạng các loại hình di tích kiến trúc, mỗi loại hình đều mang một dáng vẻ riêng, độc đáo hòa quyện vào nhau làm nên cái hồn chung của phố cổ. Nhà thờ tộc là một trong những loại hình di tích khá độc đáo góp phần làm cho diện mạo kiến trúc, mỹ thuật phố cổ Hội An trở nên phong phú. Mỗi nhà thờ tộc tuy có những nét gần nhau về kiểu thức, về bố cục,… kiến trúc nhưng lại mang một vẻ đẹp rất riêng được thể hiện qua các đồ án trang trí mỹ thuật.
Cư dân làm nghề biển ở các bãi ngang, bãi dọc tại Cẩm An, Cửa Đại, ở Cù Lao Chàm cũng có các hình thức hát xướng dân gian phổ biến như ở nhiều địa phương như hát hò khoan đối đáp, hô hát bài chòi, hát ru, hát lý, hò chèo thuyền, hò ba lý… Các hình thức diễn xướng, hát hò này cũng tương tự như ở các nơi thuộc khu vực phố thị, nông thôn, có khác chăng là ở nội dung lời hát phản ảnh những vấn đề liên quan đến các địa phương và cộng đồng dân cư làm nghề biển. Tuy nhiên một loại hình diễn xướng chỉ có ở các cộng đồng dân cư làm nghề biển đó là hát bả trạo.
Yến sào (tổ chim yến ) là sản vật không những có giá trị kinh tế rất cao được ví như “vàng trắng” mà còn chứa những giá trị dinh dưỡng và y dược cực kỳ lớn. Bởi vậy, dưới thời phong kiến, đặc sản yến sào được xếp ở vị thứ đầu tiên trong bát trân theo thực đơn của các vua, chúa. Việc thu mua yến sào thuộc độc quyền của triều đình.
Lễ hội giao lưu văn hóa Việt Nam - Nhật Bản được tổ chức lần đầu tiên tại Hội An vào tháng 8/2002. Từ đó đến nay, lễ hội này trở thành hoạt động thường niên tại Hội An nhằm kỷ niệm mối quan hệ lâu đời, gắn bó thân thiết giữa Việt Nam và Nhật Bản. Hơn 400 năm trước, các thương nhân Nhật Bản đã có những đóng góp to lớn, để lại nhiều dấu ấn minh chứng cho thời kỳ phát triển phồn vinh của thương cảng Hội An, làm tiền đề cho mối quan hệ hữu nghị Việt - Nhật sau này.