Nguyễn Văn Điển - Vị Cử nhân đầu tiên của Hội An dưới triều Nguyễn

Chủ nhật - 12/09/2021 22:21
Làng Thanh Hà là một trong những làng Việt được hình thành sớm ở Hội An. Dưới triều Nguyễn, làng Thanh Hà có diện tích rộng lớn với 13 xóm ấp trải rộng từ bờ bắc sông Thu Bồn đến dọc sông Để Võng và giáp biển.
Trong lịch sử, làng Thanh Hà không chỉ nổi tiếng về nghề làm gốm, gạch ngói với nhiều thợ có tay nghề cao được triều đình trưng tập về kinh đô Huế để xây dựng các công trình kiến trúc, mà còn nổi tiếng về truyền thống học hành, khoa bảng với Phó bảng Nguyễn Duy Hiệu, Cử nhân Nguyễn Văn Điển, Nguyễn Văn Tuyển,... Trong đó, Nguyễn Văn Điển là cử nhân đầu tiên của Hội An dưới triều Nguyễn.
 
mo ong nguyen van dien
Mộ ông Nguyễn Văn Điển - Ảnh: Hồng Việt - Phòng Tư liệu và Thông tin Di sản
 
        Theo nhiều nguồn tư liệu, đặc biệt là văn bia và gia phả cho biết, Nguyễn Văn Điển tự là Tam Lễ, thụy là Trang Lượng, sinh năm Tân Hợi (1791), người ấp Trà Quế, làng Thanh Hà. Gia tộc của ông có nguồn gốc ở huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Tuy không phải là một trong những tộc tiền hiền của làng Thanh Hà nhưng đây là tộc họ khá nổi tiếng, có truyền thống Nho nghiệp, nhiều người đỗ đạt, làm quan giữ những chức vụ quan trọng trong chính quyền nhà Nguyễn. Thân phụ Nguyễn Văn Điển là Nguyễn Văn Yến, thụy Đoan Lượng, từng giữ chức Thư ký Bắc Thành, Hàn Lâm viện Thị giảng vào thời vua Gia Long, sau được phong Triều liệt đại phu. Con trai Nguyên Văn Tuyển thi đổ cử nhân khoa Mậu Thân dưới thời vua Tự Đức (1848), giữ chức Thủ ấn Đổng lý đại thần, sau được bổ làm Án sát Hà Nội.

        Được sự giáo dưỡng trong truyền thống gia đình, từ nhỏ Nguyễn Văn Điển nổi tiếng là người thông minh, hiếu học. Khoa thi Hương năm Kỷ Mão Gia Long thứ 18 (1819) tại trường Trực Lệ[1], ông đỗ Cử nhân ở vị thứ 15 trong số 17 người, trở thành vị cử nhân đầu tiên của Hội An dưới triều Nguyễn. Cùng đỗ khoa này, ở Quảng Nam có ông Nguyễn Xuân Hải, người xã Hải Châu Chánh, huyện Hòa Vang, ông Nguyễn Văn Thành ở Giáp Đông, châu Trà Nhiêu, thuộc Hoa Châu và ông Doãn Văn Xuân ở xã Quảng Phú, huyện Lễ Dương[2]. Nguyễn Văn Điển được bổ làm quan và giao giữ nhiều chức vụ quan trọng trải qua 3 đời vua từ vua Minh Mạng nguyên niên (1820) đến vua Tự Đức ngũ niên (1852). Từ năm 1820 đến năm 1829, Nguyễn Văn Điển được bổ làm Hành tẩu Bộ Công, Tri huyện Từ Liêm, Tri phủ Quốc Oai, Tri phủ Thiệu Hóa, Lang trung Bộ Binh[3]. Theo sách Đại Nam thực lục, vào năm Minh Mạng thứ 10 (1829), Nguyễn Văn Điển, lúc này là Thự Lang trung Bộ Binh, được sung chức Tổng toản tu để biên soạn tôn phả[4]. Từ năm Minh Mạng thứ 12 (1831) đến năm Tự Đức thứ 5 (1852), ông trải qua các chức vụ như Thự Hiệp trấn Gia Định, Thự Hiệp trấn Phiên An (1832), Bố chánh Khánh Hòa (1834), Lang trung Bộ Công (1838), Biện lý Bộ Công (1839), Tả Thị lang Bộ Công (1842), Hữu Tham tri Bộ Công (1846)[5]. Vào năm Canh Tuất Tự Đức thứ 3 (1850), Hữu Tham tri Bộ Công kiêm Hiệp lý Thủy sư Nguyễn Văn Điển được bổ làm Hộ lý Tổng đốc Định - Yên rồi Thự Tổng đốc Định - Yên vào năm 1851[6]. Cũng năm 1850 được sung làm Khâm sai đại thần đi thanh tra Hải Dương[7]. Tháng chạp năm Tự Đức thứ 5 (1852), ông Nguyễn Văn Điển qua đời khi đương chức Thự Tổng đốc Định - Yên, thọ 61 tuổi. Hơn 30 năm làm quan trong triều cũng như tại các địa phương, Nguyễn Văn Điển được xem là người tài cán, có công không chỉ trong việc tiễu trừ loạn phỉ, giữ an yên cho đời sống của nhân dân mà còn trong việc sửa chữa Hiếu lăng, Hiếu Đông lăng, vườn Cơ Hạ,… Do vậy, khi ông mất, vua Tự Đức thương xót bèn “chuẩn cho thực thụ Tổng đốc, cấp tiền tuất, lại cho thêm 600 quan tiền, 2 cây gấm, 3 tấm sa, sai quan đến tế[8]. Phẩm hạnh, đức độ, tư tưởng thân dân, gần dân, giúp đỡ nhân dân của ông được quan lại, nhân dân Định Yên và Tiến sĩ Phạm Văn Nghị ca ngợi trong bài văn khắc tại bia mộ:
“... Xem như: Ngài chế đài Nguyễn Tướng Công, ôn hòa độ lượng, mát mẽ như gió thoảng xa nên khoa thế 3 quốc triều ta, đấng hiền tài sớm đạt, trải hoạn đồ hơn 30 năm. Trời đất cho dài nối, năm Canh Tuất đầu mùa thu theo ngọn cờ súy vào Nam, làm việc chánh không nhiễu phiền, ơn xuống đến kẻ thôn ở, người đều hưởng nhờ hòa khí, tình thâm đến kẻ hào thân. Xử sự tròn mà thông suốt nên việc không ứ đọng, thận kính mà giản đơn nên người người đều thân mến(...) Ân cần mà nghiêm lệ, tiếp vật khoan hằng bình dị gần dân, kẻ trí không hoảng hốt, người ngu thì được dạy răn, phân biệt rõ hình tích, không xa lìa thế tục, mà trì thủ định đoạt yên ổn 4 phủ và 18 huyện của tỉnh Nam Định(...) Kiện thưa thì lấy tình mà thỏa xử, kiềm chế mà có pháp luật, không vì cớ gì mà để người dân phải bị nghiêm khắc. Có tật dịch thì phái người cho thuốc trị. Năm bị úng hạn thì tự mình cầu đảo và tâu xin phát chẩn, dân có nể hồi sinh sau cơn khát đói và tâu xin hoãn thuế khóa. Kẻ hương lý không ai lo tay không. Việc công thong thả không quên Nho thuật, lấy văn chương mà làm thân với học giả, họ đều vui cười được vị nho sư đầm ấm cái phong khí đại nhã. Quan cai trị mà đến với dân để cổ lệ sĩ phu như nắng mùa đông và bóng mát mùa hạ. Khá mến, khá mộ vậy, duy lấy lòng thành mà đãi vật thì vật cũng trả lòng thành, không ác với người thì người không ác lại. Nếu không phải có đức độ chân thật thì làm sao được tốt như vậy...”[9]
 
ban dap bia mo anh tu lieu trung tam
Bản dập bia mộ - Ảnh: tư liệu trung tâm
       
Hiện nay, mộ ông Nguyễn Văn Điển tọa lạc trên một gò đất cao cạnh đầm Trà Quế, xung quanh là vườn rau xanh mướt. Ngôi mộ xoay về hướng tây nam, quy mô khá lớn, mặt trước của trụ cổng có câu đối Hán Nôm: “Bạch vân ẩn ước triêu hoàn mộ, Hoàng Hạc y hy khứ phục lai”. Câu đối Hán Nôm trên trụ biểu đề: “Kim bảng đề danh tự cổ phương truyền lưu hậu thế, Huân công ký tích nhi kim hâm hưởng đức tiền nhân”. Trên nhà bia đắp nổi dòng chữ Hán: “Nguyễn Tướng Công Chi Mộ” và cặp câu đối Hán Nôm: “Tư thiện Đại phu dĩ văn đức phù an xã tắc; Thượng thư Bộ Binh dụng võ công báo nghĩa quốc dân”. Trong nhà bia có đặt tấm bia lớn bằng cẩm thạch trắng với hai mặt đều khắc minh văn về cuộc đời và sự nghiệp ông Nguyễn Văn Điển. Nấm mộ phía sau nhà bia được ghép bởi 5 phiến sa thạch lớn màu xám xanh. Là nơi yên nghỉ của một vị đại thần có nhiều cống hiến cho đất nước trên lĩnh vực chính trị và quân sự, một vị quan thanh liêm cương trực, thương dân,... do vậy, ngôi mộ không chỉ là di tích có giá trị về mặt lịch sử, văn hóa, khoa học mà còn có ý nghĩa lớn trong việc giáo dục truyền thống hiếu học khoa bảng của địa phương.
 
 
* Tài liệu trích dẫn:
[1] Khoa thi Hương năm Kỷ Mão Gia Long thứ 18 (1819) thi tại 6 trường gồm Trường Trực Lệ, Nghệ An, Thanh Hoa, Thăng Long, Sơn Nam, Gia Định; lấy 112 người. Trường Trực Lệ trước đó gọi là trường Quảng Đức, về sưu này gọi là trường Thừa Thiên. Khoa thi năm này tại trường Trực Lệ do Thượng thư bộ Lại Nguyễn Hữu Thận làm Đề điệu, Cai bạ trấn Bình Định Vũ Xuân Cẩn làm Giám thí, Thiêm sự bộ Lễ Nguyễn Đăng Tuân làm Giám khảo.
[2] Cao Xuân Dục, Quốc Triều Hương khoa lục, Nxb Lao Động và Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây xuất bản, 2011, tr.101-102.
[3] Theo văn bia tại mộ Nguyễn Văn Điển lập năm Tân Dậu (1861).
[4] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập 2, Nxb Giáo Dục, 2007, tr.818.
[5] Quốc sử quán triều Nguyễn, Sđd, tập 3, 4, 5, 6.
[6] Quốc sử quán triều Nguyễn, Sđd, tập 7, tr.188.
[7] Theo văn bia tại mộ Nguyễn Văn Điển lập năm Tân Dậu (1861).
[8] Quốc sử quán triều Nguyễn, Sđd, tập 7, tr.257.
[9] Theo văn bia tại mộ Nguyễn Văn Điển (Nhóm nghiên cứu Hội An (2014), Di sản Hán Nôm Hội An, tập 1- Văn bia, Sở Thông tin - Truyền thông Quảng Nam cấp phép xuất bản. tr.182).

* Tài liệu tham khảo:
1. Cao Xuân Dục, Quốc Triều Hương khoa lục, Nxb Lao Động và Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây xuất bản, 2011.
2. Nguyễn Đình Đầu (2010), Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn, Dinh Quảng Nam, tập 2, Nxb Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh.
3. Phạm Ngô Minh, Trương Duy Hy (2007), Khoa bảng Quảng Nam dưới thời nhà Nguyễn 1601-1919, Nxb Văn nghệ.
4. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập 2, Nxb Giáo Dục, 2007.
5. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập 3, Nxb Giáo Dục, 2007.
6. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập 4, Nxb Giáo Dục, 2007.
7. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập 5, Nxb Giáo Dục, 2007.
8. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập 6, Nxb Giáo Dục, 2007.
9. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập 7, Nxb Giáo Dục, 2007.
10. Trần Thanh Tâm (2000), Quan chức nhà Nguyễn, Nxb Thuận Hóa, Huế.
11. Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV (2012), Khoa bảng Trung bộ và Nam bộ qua tài liệu Mộc bản triều Nguyễn, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
12. Nhóm nghiên cứu Hội An (2014), Di sản Hán Nôm Hội An, tập 1- Văn bia, Sở Thông tin - Truyền thông Quảng Nam cấp phép xuất bản.

Tác giả: Hồng Việt

Nguồn tin: Trung tâm Quản lý Bảo tồn Di sản Văn hóa Hội An

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

liên kết web
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây