Do sự chi phối của các điều kiện về sinh thái - tự nhiên, về truyền thống và thói quen ăn uống mà mỗi vùng miền khác nhau thường có một số món ăn đặc hữu gắn với vùng đất và con người nơi đó.
Quế, tên khoa học là Cinnamomum sp., thuộc họ Long não (Lauraceae). Đây là loại cây nhiệt đới lâu năm lấy tinh dầu và làm thuốc.
Trên một khu đất ven đường Hải Thượng Lãn Ông (phường Tân An, thành phố Hội An) có một ngôi mộ nhỏ đơn sơ chỉ với một tấm bia bằng cẩm thạch, nấm mộ đắp bằng đất nằm khuất sau hàng cây và bên nhà dân, xung quanh ngôi mộ được trồng vài cây hoa trang đỏ, mặt bia mộ lại quay vào bên trong xưởng gỗ, hiếm người biết đây là nơi yên nghỉ của một “cầu tướng” trung phong Trần Văn Tứ đầy tài năng của bóng đá phố Hội nói riêng, tỉnh Quảng Nam, miền Trung nói chung trong thời kỳ thuộc Pháp.
Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Lê Văn Đức sinh năm 1926, tại Cồn Chài, nay là khối Thanh Nam, phường Cẩm Châu, trong một gia đình nghèo làm nghề đánh bắt trên sông nước và làm thuê cho địa chủ.
Địa bạ triều Nguyễn là một trong những nguồn tư liệu quan trọng để nghiên cứu lịch sử - văn hóa Việt Nam, nhất là nghiên cứu về làng xã, trong đó có Hội An, Quảng Nam.
Bên cạnh các nguồn sử liệu do người Việt biên soạn, còn có một bộ phận sử liệu quan trọng khác là các hồi ký, du ký, tài liệu nghiên cứu của các thương nhân, giáo sĩ, các chính trị gia nước ngoài về Việt Nam nói chung, Hội An, Quảng Nam nói riêng nhằm phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế, truyền giáo, cũng như mục đích chính trị... Trong nội dung dưới đây của bài viết xin giới thiệu một vài thông tin về Hội An qua cuốn hồi ký xứ Đông Dương của Paul Doumer.
Đồng chí Lê Vinh sinh năm 1912 tại ấp Ngọc Thành, làng Kim Bồng (nay là khối Ngọc Thành, phường Cẩm Phô, thành phố Hội An). Lúc nhỏ, Lê Vinh học hết chương trình Yếu lược (Primaire Élémentaire) rồi theo cha phụ đắp vẽ, cẩn gốm sứ tại các công trình kiến trúc ở Hội An.
Từ lâu, Hội An đã trở thành biểu tượng cho các giá trị văn hóa của dân tộc, là niềm tự hào của mỗi người Quảng Nam. Câu ca dao khá quen thuộc: “Ai qua phố Hội, chùa Cầu; Ðể thương, để nhớ, để sầu cho ai; Ðể sầu cho khách vãng lai; Ðể thương, để nhớ cho ai chịu sầu” đã nói thay tấm lòng của bạn bè bốn phương đối với Hội An.
Cùng với những món ăn, thức uống thường thấy xuất hiện trong ngày Tết Đoan Ngọ ở Hội An như: xôi, chè đậu xanh đánh, thịt vịt, trái cây, nước lá (các loại lá thuốc Nam) thì bánh ú tro gần như là một phẩm vật đặc trưng.
Quá trình chung sống, tương tác lâu dài với biển đảo đã cho ra đời tại Hội An một ngành kinh tế mới là nghề biển với nhiều cách thức khác nhau từ khai thác, đánh bắt cho đến gia công, chế biến, vận chuyển, dịch vụ, buôn bán…
Thời kỳ phong kiến đối với vùng đất Hội An nói riêng và cả vùng đất xứ Quảng nói chung bắt đầu tính từ sau sự kiện Huyền Trân Công chúa năm 1306. Lúc này khu vực Hội An có một phần ở phía Tây, Tây - Bắc, thuộc châu Rí/lý đã được nhập vào lãnh thổ của nhà nước Đại Việt (thời kỳ nhà Trần).
Từ xa xưa nghề đánh bắt hải sản là nghề khó khăn, vất vả và nguy hiểm, mức độ rủi ro lớn. Đã có không biết bao nhiêu ngư dân mãi mãi nằm lại giữa biển khơi do thiên tai bão lụt.
Tộc Nguyễn Tường là một gia tộc nổi tiếng ở Hội An về truyền thống khoa bảng với nhiều người đỗ đạt cao, làm quan lớn dưới triều Nguyễn và giai đoạn sau là các thế hệ con cháu có đóng góp lớn trong nền văn học mới của Việt Nam.
Quốc chúa Nguyễn Phúc Chu (1675 – 1725) là vị chúa thứ 6 trong 9 đời chúa Nguyễn. Ông là con trưởng của chúa Nghĩa Nguyễn Phúc Trăn, thân mẫu họ Tống, sau được truy tôn là Hiếu Nghĩa hoàng hậu. Năm 1691 chúa Nghĩa mất, ông lên nối ngôi khi mới 17 tuổi.
Làng gốm Thanh Hà - Hội An ra đời vào những năm cuối thế kỷ XVI, đầu thế kỷ XVII. Với vai trò là một nghề phụ gắn bó chặt chẽ với đời sống của cư dân nông nghiệp, ngay từ buổi đầu tiên đến định cư tại vùng đất mới, những cư dân Việt từ phía Bắc trên cơ sở tiếp thu những kinh nghiệm sản xuất của người Chăm bản địa cùng với những kinh nghiệm mà họ mang theo từ cố hương đã tiến hành sản xuất những sản phẩm gia dụng phục vụ cho nhu cầu cuộc sống hàng ngày.
Làng rau Trà Quế xã Cẩm Hà nằm cách trung tâm Hội An khoảng 2,5 km về phía Bắc. Nơi đây như một cù lao sông nước, được bao bọc bởi sông Để Võng và đầm Trà Quế. Khi nhắc đến địa danh Trà Quế, điều liên tưởng đầu tiên đó là nghề trồng rau truyền thống nổi tiếng có từ lâu đời, gắn kết với quá trình hình thành và phát triển vùng đất.
Theo thống kê chưa đầy đủ, tại Việt Nam hiện còn 12 cây cầu có mái che với kết cấu “thượng gia hạ kiều”, nhiều nhất là Nam Định với 5 cầu, Hà Nội có 4 cầu (đều nằm trên địa bàn tỉnh Hà Tây cũ), Ninh Bình, Huế, Quảng Nam mỗi tỉnh có 1 cầu.
Bị thất bại liên tiếp trên chiến trường miền Nam, Mỹ điên cuồng leo thang đánh phá miền Bắc bằng cuộc tập kích chiến lược quy mô lớn với trận B.52 trong 12 ngày đêm (18 - 29/12/1972), quân, dân miền Bắc đã đập tan, đánh thắng một bộ phận quan trọng trong chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, bảo vệ vững chắc miền Bắc - hậu phương lớn của cả nước.
Vào cuối thế kỷ XV, ngư¬ời Việt đã đặt chân lên đất Hội An để thực hiện việc khai hoang mở cõi. Từ đó, vốn mang trong mình truyền thống cần cù, thông minh và sáng tạo trong lao động sản xuất, biết kế thừa và phát huy những thành tựu của các thời kỳ Tiền - Sơ sử, thời kỳ Champa trước đó kết hợp với quá trình giao lưu buôn bán với nhiều nước trên thế giới và biết tận dụng, khai thác hợp lý các điều kiện tự nhiên môi trường, bên cạnh việc khai hoang lập làng canh tác nông nghiệp, người Hội An còn linh hoạt sáng tạo một số ngành nghề truyền thống như ở các lĩnh vực nông, ngư, thương, tiểu thủ công bằng các nghề cụ thể như nghề yến Thanh Châu, nghề đánh bắt, chế biến thủy sản ở Võng Nhi, Đế Võng; nghề mộc Kim Bồng, nghề gốm Thanh Hà... nghề buôn, khai thác thổ sản,...
Nhà thơ Chế Lan Viên đã viết về Hội An, trong bài “Quê hương” có đoạn:
Hội An chẳng là QUÊ
Mà là HƯƠNG, khổ thế
Quên QUÊ, ai có thể
HƯƠNG ư ? Ôi dễ gì!