Chân dung đồng chí Lê Văn Đức - Ảnh: phòng Bảo Tàng
Từ nhỏ đồng chí Lê Văn Đức đã nhận thấy sự bất công của xã hội và sự bóc lột, tàn ác của bọn cầm quyền đối với nhân dân nên sớm có tư tưởng tham gia cách mạng, đấu tranh chống áp bức bóc lột. Đầu năm 1946, đồng chí Lê Văn Đức tham gia phong trào cách mạng tại địa phương. Sau khi Hồ Chủ tịch ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến ngày 19/12/1946, đồng chí Đức tình nguyện vào đội quân du kích mật tại Cồn Chài, len lỏi hoạt động, bám trụ đánh địch cho đến ngày cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi. Sau khi Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, vào tháng 6 năm 1954 đế quốc Mỹ âm mưu chia cắt đất nước ta lâu dài nên đã dựng lên chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm ở miền Nam. Thời điểm ấy, đồng chí được phân công ở lại quê hương cùng với các đồng chí Trương Bút, Nguyễn Khoa hoạt động xây dựng cơ sở, lãnh đạo nhân dân đấu tranh đòi hiệp thương tổng tuyển cử.
Năm 1957, tình hình trở nên phức tạp và ác liệt, địch ra sức khủng bố phong trào đấu tranh của nhân dân ta, nhưng đồng chí vẫn kiên định lập trường, vừa động viên gia đình vừa tiếp tục hoàn thành nhiệm vụ cách mạng giao phó, vận động nhân dân đấu tranh chống tố cộng và bảo vệ cơ sở. Cũng trong năm này, đồng chí Đức bị bọn địch bắt giam, tra tấn đánh đập dã man. Đến năm 1958 vì không khai thác được gì nên địch thả đồng chí về và quản thúc tại địa phương. Tuy bị theo dõi, nhưng tấm lòng sắc son nguyện theo Đảng đến cùng, theo cách mạng, đồng chí vẫn chắp nối lại cơ sở cũ hoạt động và tìm mọi cách liên hệ với lãnh đạo. Đến năm 1963, đồng chí Đức bắt được liên lạc và được giới thiệu về công tác tại Ban Binh vận thị xã Hội An, do đồng chí Đặng Ngọc Châu phụ trách. Tại đây đồng chí Đức được giao nhiệm vụ xây dựng cơ sở ngay trong hàng ngũ địch. Nắm rõ những hoạt động của địch, sự dao động của binh lính ngụy mỗi lần đi càn, nên từ năm 1963 - 1968, đồng chí Đức đã xây dựng trên 10 cơ sở nội tuyến, sử dụng cơ sở này đánh địch 5 trận và chuyển nhiều vũ khí, đạn dược ra vùng giải phóng. Tháng 2/1968, đồng chí Đức vinh dự được kết nạp vào Đảng Lao Động Việt Nam (
nay là Đảng Cộng sản Việt Nam).
Trong những năm tháng gian khổ ác liệt, khi địch phản kích và đánh phá, đồng chí Đức đã tỏ ra dũng cảm và khôn ngoan trong đấu tranh cách mạng. Trong những năm tháng chiến tranh ác liệt (
1968 và 1969), đồng chí Đức vẫn thường căn dặn vợ con “
Nếu tôi hy sinh thì gia đình đừng buồn cứ tiếp tục hoạt động vì cách mạng sẽ chiến thắng, nếu cần hy sinh cả gia đình cũng là niềm vinh dự cho con cháu sau này”. Những năm bám trụ xây dựng khu lõm ở Cồn Chài, đồng chí Đức chủ yếu hoạt động mật dưới vỏ bọc phụ giúp gia đình đánh cá và đã nhiều lần vào sinh ra tử. Phương tiện chính để đồng chí hoạt động là chiếc ghe nhỏ dùng để làm nghề đánh bắt cá, được mua năm 1962, tại làng mộc Kim Bồng. Đồng chí Đức đã sử dụng để chuyên chở hàng hóa, cán bộ từ vùng địch về vùng giải phóng. Tháng 5/1968 đồng chí Đức nhận nhiệm vụ chuyển tài liệu, vũ khí và xây dựng đường dây giao liên từ vùng địch ra vùng giải phóng Cẩm Thanh. Vào một đêm tối trời, đồng chí Đức cùng con trai Lê Văn Nhựt đem tài liệu và 20 quả lựu đạn từ nhà xuống ghe ra vùng giải phóng, đây là tài liệu về sơ đồ đồn bốt và vũ khí do cơ sở nội tuyến của đồng chí Đức cung cấp nhằm đem ra báo cáo lãnh đạo nghiên cứu và phục vụ bộ đội tấn công địch. Khi đồng chí Đức vừa bước xuống ghe thì bị một tiểu đội của Trung Đoàn 51 bao vây. Biết mình lọt vào ổ phục kích của địch, đồng chí Đức vẫn bình tĩnh tiếp tục cùng con đẩy ghe ra bến giả vờ đi đánh cá. Thế là súng nổ, bọn địch bắn xối xả xuống ghe, đồng chí Đức bị thương nặng ở tay và bụng, nhưng đồng chí vẫn tỉnh táo rút hết tài liệu để trong mình rồi cột vào 20 quả lựu đạn thả chìm xuống lòng sông rồi bảo con “
Con cứ chèo vào bờ, đừng sợ”. Bọn địch ào xuống lục soát nhưng không có gì cả, trong khi đó đồng chí Đức và con trai phản đối chúng bắn phá không cho cha con mình đi đánh cá, đấu tranh buộc chúng phải đưa đồng chí vào bệnh viện băng bó, cứu chữa và bồi thường. Trên đường đến bệnh viện, dù bị thương nặng, nhưng đồng chí Đức vẫn suy nghĩ phát hiện nơi địch phục kích, đó là bờ tre quanh bến cá. Đêm đó nằm tại bệnh viện, suy nghĩ duy nhất của đồng chí Đức vẫn là tìm cách diệt địch tại bờ tre này, nên sáng hôm sau, vợ con vào thăm, đồng chí đã căn dặn vợ con về gài 2 quả mìn tại bờ tre, bảo anh em du kích khi phát hiện địch thì bắn một loạt, như thế nào chúng cũng nhảy vào bụi tre để đánh, cứ thế mà bấm mìn. Kế hoạch của đồng chí Đức đã được thực hiện. Hai hôm sau, bọn địch vẫn tiếp tục phục kích tại bến này và đã bị con của đồng chí Đức gài mìn diệt 12 tên. Một chiến công khác diễn ra vào sáng ngày 25/04/1969, nhà đồng chí Đức bị địch phát hiện do một tên cơ sở mật phản bội chỉ điểm, địch vây ráp quanh nhà đồng chí, bắt trói cả gia đình, chúng đánh đập tra tấn đồng chí cực kỳ dã man. Nhưng đồng chí vẫn chỉ bảo “
công sự này để cất đồ đạc và mành lưới thôi, chớ không có ai ở cả”. Bọn địch lục soát thì phát hiện một số tài liệu binh vận về kêu gọi lính Nam Triều Tiên mà đồng chí chưa kịp cất giấu, thế là chúng tiếp tục đánh đập đồng chí, bắt giam toàn bộ gia đình. Thời gian bị giam cầm, địch đã đưa đồng chí Đức ở nhiều nhà lao, trong đó có nhà lao Hội An. Ở đâu đồng chí cũng cùng với tập thể tù chính trị tham gia các cuộc đấu tranh trong nhà tù và tận tình giúp đỡ anh em. Trong những năm 1967 - 1972, dù biết địch đã phát hiện và ngày đêm theo dõi phục kích những nơi mình hay đi lại để sát hại, nhưng đồng chí Đức vẫn nhiều lần hoàn thành nhiệm vụ. Đồng chí nhiều lần dùng bao ni lông lặn sâu xuống nước qua khỏi phạm vi phục kích của địch, lội về vùng giải phóng để báo cáo tình hình và nhận nhiệm vụ. Hoặc khi cơ sở nội tuyến báo địch có âm mưu gì, hay một số cơ sở bị địch bắt đánh đập không chịu nổi phải khai báo, thì đồng chí Đức không bao giờ ngại nguy hiểm, bất kể ngày đêm dù tình hình có khó khăn đến mấy cũng tìm cách ra vùng giải phóng để báo cáo về cấp trên kịp thời. Ngày 22/12/1973, trên đường ra vùng giải phóng nhận nhiệm vụ, đồng chí Lê Văn Đức đã bị phục kích tại Cồn Chài và đã hy sinh trên chính chiếc ghe mà mình đã gắn bó.
Với những chiến công lập được, đồng chí Lê Văn Đức đã vinh dự được Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân vào ngày 06/11/1978 cùng với nhiều phần thưởng và huân huy chương cao quý khác. Hiện nay, nhiều tư liệu, hiện vật liên quan đến cuộc đời hoạt động cách mạng của đồng chí được bảo quản, trưng bày phát huy tại Phòng truyền thống Cách mạng Hội An.
* Tài liệu tham khảo:1. Lý lịch liệt sĩ Lê Văn Đức được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân do gia đình cung cấp.
2. Hồ sơ hiện vật chiếc ghe lưu tại Phòng Bảo tàng, Trung tâm QLBT Di sản Văn hóa Hội An.
3. Ban chấp hành Đảng bộ thị xã Hội An (1996),
Lịch sử Đảng bộ thị xã Hội An 1930 - 1975.