Thành phố Hội An, với diện tích tự nhiên 60km2, nằm ở vùng cửa sông - ven biển, thuộc hạ lưu, tả ngạn sông Thu Bồn. Hội An được bao bọc bởi môi trường tự nhiên sông - biển, nơi hòa lưu của các nguồn sông lớn như Thu Bồn, Vu Gia và sông Đế Võng. Có thể nói, các nguồn sông này đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - văn hóa của Hội An nói riêng, xứ Quảng nói chung. Những vùng như Cẩm Thanh, Cẩm Châu, Cẩm Nam, Cẩm Kim thuộc dạng địa hình ven biển, bị chia cắt bởi hệ thống sông hói chằng chịt và là vùng nước thường xuyên bị nhiễm mặn, đây là điều kiện thuận lợi cho hệ sinh thái rừng ngập mặn phát triển. Đặc biệt, tại đây dừa nước sinh trưởng, phát triển thành những rừng dừa dọc khắp các bờ sông, mương, tạo nên màu xanh mát đặt trưng cho một vùng quê. Dừa nước có tên khoa học là Nypa fruticans, còn được gọi là Attap palm, là loài duy nhất trong họ Cau (Are caceae) sinh sống trong đầm lầy.
“Thương hiệu” Hội An là hấp lực đối với du khách và bè bạn quốc tế. Hội An là nơi được chọn tổ chức nhiều sự kiện mang tầm quốc gia và quốc tế. Và các sự kiện được tổ chức tại Hội An hướng đến nâng tầm thương hiệu đó!.
Hội An đã được Hiệp hội Đầu bếp thế giới trao chứng nhận là “Một trong những thủ phủ ẩm thực của Việt Nam”. Đó cũng là biểu hiện sinh động trong quá trình hội nhập và phát triển của đô thị cổ Hội An - di sản văn hóa thế giới!
Cù Lao Chàm - nổi tiếng với nhiều tên gọi khác nhau trong lịch sử: Sanfu-Fù law, Cham-pu-lau, Pulociam, Pulaucham, Polochiam Pello, Chiêm Bất Lao, Tiêm Bích La... Bao gồm nhiều hòn đảo lớn nhỏ: Hòn Lao, Hòn Dài, Hòn Mồ, Hòn La, Hòn Khô, Hòn Tai và Hòn Ông..., nằm bên bờ biển Đông, quần tụ thành hình cánh cung quay về hướng đất liền, có tọa độ địa lý 15052’30’’ đến 16000’00’’ vĩ Bắc, 108024’30’’ đến 108034’30’’ kinh Đông, có diện tích chừng 15,5km2, cách bờ biển Cửa Đại 18 km về hướng Đông - Đông Bắc. Đã tự bao đời, Cù Lao Chàm như những người lính hoa tiêu khổng lồ - như bức bình phong che chắn, án giữ cho Cửa Đại (Đại Chiêm hải khẩu) của Đô thị thương cảng Hội An. Trên cụm đảo, đặc biệt có Hòn Lao lớn nhất, với hệ thống núi phát triển theo hình cung, độ cao nhất 517m, sườn phía Đông có đá tảng dốc đứng, hiểm trở, bao bọc, sườn Tây dốc thoải, nhiều bãi cát bồi ven biển, trong đó Bãi Ông, Bãi Làng, Bãi Hương có dân cư sinh sống lập thành xã đảo Tân Hiệp, thuộc thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam hiện nay, gồm hơn 2.200 người. Cư dân trên đảo sống chủ yếu bằng nghề đánh bắt hải sản.
Kể cũng lạ khi mà Cù Lao Chàm, một cụm đảo nằm cách đất liền Hội An chừng 15km trở thành là vương quốc của cây ngô đồng. Lạ, vì xưa nay trong suy nghĩ của nhiều người, ngô đồng là một loại cây vương giả, chốn cung đình, dinh thự sang trọng còn không muốn bắt rễ, có đâu đến một vùng đảo đầy nắng gió như Cù Lao Chàm, Hội An. Vậy mà thật bất ngờ khi phát hiện ở đây bạt ngàn một rừng ngô đồng, cứ đến tháng 6, tháng 7 âm lịch hàng năm lại ra hoa đỏ rực cả một góc trời đảo xanh, tạo thành một cảnh tượng vô cùng ngoạn mục…
Xứ Quảng dưới thời các chúa Nguyễn trong những thế kỷ XVI – XVIII là một vùng đất trù phú nhất của Đàng Trong với đô thị thương cảng Hội An nổi tiếng mở rộng cửa giao thương với thế giới bên ngoài.
Các nhà địa chất cho rằng, vùng đồng bằng ven biển miền Trung được hình thành vào đầu kỷ Đệ Tứ (cách ngày nay khoảng 2 triệu năm). Quá trình vận động kiến tạo đã tác động mạnh vào sự hình thành vùng đất này. Các vụng biển được lấp đầy, song vẫn để lại một dòng nước lợ chảy dọc ven biển bên cạnh những cồn cát, bàu nước… Những cư dân cổ đầu tiên ở vùng ven biển đã tìm những gò đất, gò cát để làm nơi trú ngụ sinh sống.
Những dòng sông đã có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - văn hóa cả xứ Quảng vì đó vừa là huyết mạch giao thông vừa là nguồn phù sa vô tận bồi đắp nên nhiều vùng đất trù phú, cùng trữ lượng sản vật dồi dào tạo nên sắc thái văn hóa xứ Quảng tự thuở xưa. Hội An chính là vùng đất hội thủy.
Dân ghiền cafe Hội An ngày trước chắc ít có ai không một lần ngồi café Chanh, một trong những quán café có tiếng tăm ở Hội An từ thế kỷ trước. Quán do cô Chanh thường gọi là cô Ba mở từ năm 1969 trong hẻm đình Ông Voi, đối diện với một tiệm phở có tiếng không kém là phở Liễu.
Sau nhiều cuộc hội thảo trong nước và quốc tế, ngày 4/12/1999, tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc (UNESCO) đã thông qua và ban hành quyết định công nhận khu phố cổ Hội An là Di sản Văn hóa Thế giới với tiêu chí II và V “Hội An là biểu hiện vật thể nổi bật của sự kết hợp các nền văn hóa qua các thời kỳ trong một thương cảng quốc tế” và “ Hội An là điển hình tiêu biểu về một cảng thị châu Á truyền thống được bảo tồn một cách hoàn hảo”. Điều đó đã khẳng định Khu phố cổ Hội An là một loại hình di sản văn hóa đặc biệt, với không gian đô thị thương cảng xưa có sự kết hợp hài hòa giữa các công trình kiến trúc độc đáo, bến cảng, thiên nhiên, những giá trị văn hóa phi vật thể và con người tạo nên sức hấp dẫn riêng.
Hội An thực sự mở cửa cho đại thương nghiệp quốc tế từ đầu thế kỷ XVII.
Hội An có một sức hấp dẫn rất đặc biệt đối với du khách, mà thường ai đã qua đó đôi lần đều cố tìm cách giải thích. Tuy nhiên không dễ. Có lẽ cũng giống như đối với một người con gái đẹp mà ta quyến luyến, chẳng dễ gì nói được rành mạch vì sao. Trong những trường hợp đó thường người ta tìm một lối đi vòng, một cách nói quanh. Xin thử nói về Hội An theo kiểu đó xem sao.
Việc bảo tồn, tu bổ di tích nhằm gìn giữ tính nguyên gốc và chân xác của di tích là một tiêu chuẩn cực kỳ quan trọng trong công tác bảo tồn. Theo đó, vấn đề sử dụng vật liệu và công cụ truyền thống trong tu bổ di tích có thể được xem là một nguyên tắc khoa học cơ bản để đánh giá kết quả tu bổ. Việc thay thế, phục chế các thành phần của di tích bị hư hại hay phục hồi các yếu tố bị mất,... cần thiết phải được tư duy và thực hiện theo cách làm của người xưa, tức là những người đã xây dựng nên công trình trong quá khứ. Các cấu trúc phục chế luôn luôn phải được làm từ vật liệu như vật liệu của cấu trúc nguyên gốc.
I- HỘI AN XƯA
1. Hoàn cảnh lịch sử:
Ra khỏi cơ chế trọng nông của nhà Lê nhưng nhà Mạc lại… nhu nhược bất lực trước những biến động xã hội dồn dập nên đất nước vào giữa thế kỷ XVI đứng trước những thời cơ phát triển thuận lợi nhưng sẽ gặp nhiều nguy cơ, thách thức lớn.
Hội An xưa là một đô thị thương cảng quốc tế lớn của Việt Nam ở các thế kỷ XVI, XVII, XVIII. Trong đó, giai đoạn thịnh hành nhất là dưới thời các chúa Nguyễn, đến thời Tây Sơn và đầu triều Nguyễn, Hội An bắt đầu suy tàn. Sở dĩ Hội An có được vị thế đó trong lịch sử, bởi do nhiều nguyên nhân: vị trí địa lý, cảnh quan tự nhiên, chính sách của các nhà nước phong kiến… Trong đó, các chính sách của chúa Nguyễn, với tư cách là nhà nước cai quản xứ Đàng Trong, đã đóng một vai trò vô cùng quan trọng.
Trong đời sống văn hóa, tín ngưỡng của cộng đồng cư dân Hội An, bên cạnh các loại hình tín ngưỡng như tín ngưỡng thờ cá Ông, Thành Hoàng, thờ cúng tổ tiên, thờ cúng tổ các nghề, thờ cúng âm hồn…thì tín ngưỡng thờ Ngũ Hành tiên Nương cũng có một vai trò quan trọng.
Trên văn đàn Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX nói riêng, trong suốt chiều dài văn học sử nước nhà nói chung, Cao Bá Quát là một gương mặt có ấn tượng sâu sắc và khác thường. Sâu sắc, khác thường bởi cuộc đời và bởi những sáng tác. Cuộc đời thì tài hoa nhưng thăng trầm và có kết cục bi thảm. Còn thơ văn thì nổi tiếng “Thần siêu, thánh Quát” với những tác phẩm đóng dấu son rực rỡ cho văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX, đến nỗi một người khó tính như vua Tự Đức đã phải hạ bút: “Văn như Siêu, Quát vô Tiền Hán…”. Trong số đó, có những tác phẩm viết về Hội An, Điện Bàn, Đà Nẵng, Quảng Nam.
Trong công cuộc sáng tạo chữ Quốc ngữ, ngay từ lúc phôi thai (khoảng đầu thế kỷ 17), người Việt Nam đã có những đóng góp lớn lao vào cuộc cách mạng chữ viết này.
Năm 1964, phong trào cách mạng ở Hội An phát triển mạnh, ta giành quyền làm chủ nhiều nơi. Thị ủy Hội An chỉ đạo thành lập Ban dân y thị xã để lo công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân và thực hiện nhiệm vụ cứu thương các lực lượng cách mạng. Trên cơ sở đó, bộ khung Ban dân y được hình thành, cấp xã cũng hình thành trạm dân y. Địa bàn đứng chân chủ yếu của Ban dân y Hội An hồi đó là Cẩm Thanh, Duy Nghĩa (Duy Xuyên), có lúc di chuyển qua Bình Dương (Thăng Bình).
Sùng bái các động vật trong tự nhiên là hình thức tín ngưỡng nguyên thủy khá phổ biến của nhiều dân tộc, nhóm tộc người, nhóm cư dân sinh sống ở các vùng địa lý khác nhau trên thế giới. Hành động tâm linh này xuất phát từ nhiều yếu tố, trong đó có việc người ta tin rằng loại động vật mà mình thờ phượng, tôn sùng đã và luôn luôn phù trợ, giúp đỡ mình vượt qua những thách thức, những hiểm nguy của cuộc sống hay trong hoạt động nghề nghiệp. Đối với cộng đồng cư dân ngư nghiệp ở ven biển miền Trung, cá Ông được xem là phúc thần trên biển và trở thành đối tượng thờ cúng, tôn sùng, tín bái từ rất lâu đời. Cá Ông được cộng đồng ngư dân khoát cho những chiếc áo thần thoại, thêu dệt nhiều câu chuyện, truyền thuyết huyền bí nhưng giàu giá trị nhân văn. Có thể thấy, trong thiết chế văn hóa của hầu hết các làng ngư nghiệp ven biển miền Trung đều có nơi chôn cất cá Ông, lăng thờ cá Ông và hằng năm đều tổ chức các lễ tế, diễn xướng liên quan đến cá Ông.