Lâu nay khi nói về các ngành nghề truyền thống gắn với biển đảo chúng ta thường tập trung sự quan tâm ở lĩnh vực khai thác, đánh bắt hải sản. Thật ra, trên thực tế, quá trình thích ứng, tương tác lâu dài với biển đảo đã cho ra đời ngành kinh tế biển với nhiều nghề khác nhau từ khai thác, đánh bắt đến thủ công, gia công, chế biến, buôn bán, dịch vụ… Thực tế này thể hiện rõ ở các địa phương ven biển miền Trung mà Hội An, Quảng Nam là một trường hợp cụ thể.
Hội An, địa chỉ của một khu đất rộng, người không đông, qui mô Hội An không to lớn, chỉ chiếm lĩnh một khoảng đất diện tích 2km2 bên bờ con nước Thu Bồn. Diện tích khiêm tốn ấy của Hội An không thể so mức độ hoành tráng với Sài Gòn - Gia Định, Hội An cũng chừng so đo bề dày lịch sử ngàn năm cùng Thăng Long - Kẻ Chợ hoặc vẻ nên thơ của các công trình kiến trúc nơi xứ Huế - Phú Xuân.
Để an dân, ngoài các bộ luật được soạn thảo và đưa vào sử dụng, triều Nguyễn cũng có các chính sách khuyến khích nhân dân làm việc thiện. Những gương điển hình làm các việc nghĩa, như giúp đỡ người nghèo, giúp đỡ nhân dân trong thiên tai, những người phụ nữ biết giữ gìn tiết hạnh đã được biểu dương khen thưởng… Trong bài viết này chúng tôi khảo cứu chính sách khuyến thiện của triều Nguyễn tại Hội An, dựa vào những tư liệu điền dã thực tế và các văn bản, thư tịch của triều Nguyễn nhằm phác họa những nét cơ bản nhất về chính sách này.
I/ Tính chất và ý nghĩa của “Khu phố cổ Hội An” trong di sản văn hóa của dân tộc: Dân tộc nào cũng có khát vọng khôi phục lại một cách đầy đủ, trọn vẹn, sinh động và chính xác bộ mặt lịch sử quá khứ của đất nước trước hết là nhằm mở rộng giới hạn ý thức dân tộc - cái quyết định sự tồn vong của mọi cộng đồng dân tộc trên thế giới. Trong từng con người cũng chẳng bao giờ tắt nghĩ ý thức muốn tìm hiểu xem cha ông, tổ tiên mình đã từng sống như thế nào, chính việc so sánh đối chiếu cái quá khứ và hiện tại là phương tiện nhằm nhận thức các qui luật của các quá trình phát triển lịch sử, để tư duy về sự tồn tại của xã hội. Mà cũng từ đó mà xác định chính xác xu thế phát triển trong tương lai. Trong lĩnh vực nghệ thuật sự so sánh như thế lại làm nảy sinh ra tình cảm trân trọng đối với truyền thống dân tộc, nét độc đáo trong sự sáng tạo của cha ông, từ đó tạo cho chúng ta sức mạnh tìm tòi, phát hiện và sáng tạo nghệ thuật, góp phần tạo ra những giá trị văn hóa mới cao đẹp hơn. Trong lĩnh vực này các di tích kiến trúc có giá trị rất to lớn về mặt nhận thức. Bởi vì kiến trúc đã từng là người bạn đồng hành không tách rời của con người suốt trong bề dày của lịch sử xã hội loài người. Kiến trúc xuất hiện khởi thủy là do nhu cầu tự bảo vệ, kế tục, duy trì nòi giống của con người. Mãi về sau này trình độ phát triển của xã hội loài người đã đạt tới nhất định thì kiến trúc mới biến thành hình thức lao động nghệ thuật. Như thế rõ ràng là giá trị thực dụng của một công trình kiến trúc tồn tại rất sớm so với giá trị thẩm mỹ của nó. Trước khi là một bộ môn nghệ thuật kiến trúc đã từng là một ngành sản xuất. Nó gắn liền với sự phát triển của lực lượng sản xuất vật chất của xã hội, gắn với những nhân tố kỹ thuật mới là cái đáp ứng những nhu cầu phát triển của mọi thời đại.
Trong số các loại hình di tích ở phường Cẩm Nam, nhà thờ tộc là loại hình nổi bật hơn cả về số lượng với 5 ngôi nhà thờ. Không chỉ là nơi thờ tự các bậc tiên tổ dòng tộc đã có công khai phá lập làng cho đời đời con cháu sinh tồn, phát triển, những công trình này còn chứa đựng giá trị về kiến trúc nghệ thuật độc đáo. Có thể minh chứng điều này qua ngôi nhà thờ của tộc Trần Đắc.
Trong danh mục 9 món ăn này, tại Hội An ít nhất có 4 món mà du khách không thể bỏ qua khi đến nơi đây đó là bánh mì, bánh xèo, cao lầu và các loại chè. Ban biên tập Website xin trích giới thiệu bài viết này trên tạp chí Văn hóa nghệ thuật ẩm thực (Số 156/5 - 2015)
Trước khi người Việt có mặt ở Hội An thì đã có Cù Lao Chàm và Cửa Đại Chiêm - sách xưa gọi là Đại Chiêm môn hay Đại Chiêm hải khấu, người Việt gọi vắn tắt là Cửa Đại - cửa ngỏ miền Amaravati của Vương quốc Champa, không xa đất thánh Mỹ Sơn và các kinh đô Sinhapura (Trà Kiệu) và Indrapura (Đồng Dương). Dấu vết của người Chàm để lại ở vùng Hội An là những ngôi miếu Bà Lồi, miếu Bà Dàng và nhiều pho tượng hiện bày tại Viện Bảo tàng nghệ thuật điêu khắc Chàm ở thành phố Đà Nẵng.
Ngày nay nhìn lên bản vẽ bình đồ đô thị Hội An chúng ta thấy đó là một điểm tụ cư nằm dọc theo bờ sông Thu Bồn tức sông Củi, tức sông Cái trong sử sách. Sông Thu Bồn giới hạn phía Nam đô thị, một dòng nước nhỏ đổ vào sông Thu Bồn hình thành một ngã ba sông với cây cầu Lai Viễn bắc qua nhánh sông nhỏ đó là giới hạn về phía tây của đô thị, về phía đông là biển với cửa Đại tức Cửa Đại Chiêm trong sử sách. Duy chỉ mặt bắc không có sông mà có một dải đất lồi rồi đến núi. Đó là một đô thị ven sông.
Quảng Nam có đa dạng tài nguyên biển đảo, trong đó vùng biển Cù Lao Chàm (xã Tân Hiệp, TP.Hội An) vừa là khu bảo tồn biển quốc gia vừa là khu dự trữ sinh quyển thế giới. Chung tay bảo vệ tài nguyên biển đảo là việc làm rất cần thiết đã và đang đem lại kết quả tích cực.
"Thứ nhất Kinh kỳ, thứ nhì phố Hiến”: Câu ca ấy nhắc nhở về hai trung tâm thương nghiệp của nước ta ở Đàng Ngoài trong những thế kỷ XVII - XVIII. Thời bấy giờ ở Đàng Trong có Hội An sánh ngang và về mặt nào đó còn phát triển hơn cả Kinh kỳ, phố Hiến. ít nhiều trên sách vở các địa danh này đã được nhắc đến nhưng hình như các di tích ở đó chưa gây được sự chú ý đúng mức. Trải qua thời gian khó tìm thấy dấu vết của phố Hiến, Kinh kỳ xưa ở Hưng Yên, Hà Nội này. Riêng Hội An may mắn thay di tích còn lại tương đối nguyên vẹn.
Trương Đình Quang, khởi đầu là một người độc hành. Và về sau, vẫn mãi là kẻ độc hành. Nẻo đường nghệ thuật người nhạc sĩ già đã và đang bước đi ấy, lắm những gập ghềnh. Bạn đồng hành, đã theo tháng năm rời bỏ ông…
Hơn 40 năm trôi qua, nhưng trong ký ức các chị Phạm Thị Thạnh, Võ Thị Hóa và Nguyễn Thị Kiểm - ba trong số 9 thành viên của đội thiếu niên hợp pháp “Chim chèo bẻo” xã Cẩm Thanh, thị xã Hội An năm xưa vẫn còn đó những ngày say mê đem tiếng hát lời ca, điệu múa phục vụ nhiệm vụ cách mạng trong vùng địch. Tuổi mười bốn, mười lăm, các chị đã trở thành những thiếu niên dũng cảm, bất chấp hiểm nguy, đưa đội thiếu niên “Chim chèo bẻo” Cẩm Thanh trở thành một tổ chức cách mạng vang tiếng ở Hội An một thời...
Chùa Bà Mụ, hay còn gọi là miếu (cung) Cẩm Hà - Hải Bình, Hội quán Triều Châu và Lai Viễn Kiều (Chùa Cầu) là những di tích kiến trúc nghệ thuật đặc biệt trong quần thể di tích Đô thị cổ Hội An. Và Hội An đang tìm cách bảo tồn, gìn giữ 3 kiến trúc được Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp công nhận là những công trình kiến trúc đẹp nhất Việt Nam vào những năm 1930 này.
I/ Từ con đường “Thượng Chùa Cầu - Hạ Ông Bổn”:
Đối với cư dân Cù Lao Chàm, bên cạnh ngư nghiệp, nông nghiệp thì một số nghề liên quan đến rừng núi cũng là một trong những lợi thế của xã đảo như nghề đốn củi, bứt mây, hái cây lá rừng để dùng làm nước uống, để ăn…
Lịch sử Việt Nam cho chúng ta thấy rằng vào thế kỷ XVII tiếng Việt đã là một ngôn ngữ giàu đẹp, đủ diễn đạt mọi mặt của cuộc sống lúc bấy giờ.
Vào cuối thế kỷ XVII, trong tác phẩm Hải ngoại kỷ sự, nhà sư Thích Đại Sán đã mô tả: Cù Lao Chàm còn có tên là Cú Lũ, là nơi cung cấp nguồn củi, nước dự trữ cho tàu thuyền qua lại trên vùng biển Đông và cũng là nơi tránh bão của các tàu thuyền lớn lưu hành trên biển Đông. Lúc bấy giờ, cư dân của Cù Lao Chàm có khoảng 300 tráng đinh, chưa kể người già và trẻ con, người dân sống chủ yếu bằng nghề đánh cá, lấy củi, trồng rau. Trong nhiều tư liệu thư tịch cổ khác cũng mô tả ở Cù Lao Chàm có nghề đánh bắt thuỷ hải nhưng không nói rõ cụ thể là nghề gì.
Trong quá trình Nam tiến dưới thời các chúa Nguyễn, tuy không lấy Phật giáo làm quốc giáo như thời Lý - Trần, nhưng các chúa Nguyễn lại lấy Phật giáo làm chỗ dựa cho chính sách an dân trị quốc. Đi đến đâu người Việt cũng được chúa Nguyễn cho xây dựng chùa để thờ Phật. Đây là một vấn đề tất yếu, bởi lẽ tinh thần Phật giáo đã thấm sâu vào trong tư tưởng tình cảm của mỗi người dân Việt. Vì thế, kể từ khi đất Quảng Nam thành lập, đã thấy có bóng dáng của những ngôi chùa cũng như các vị Thiền sư đến đây hoằng hóa. Tại nơi đây, các dòng Thiền bắt đầu được truyền bá và phát triển mạnh mẽ, nhưng để lại dấu ấn đặc biệt và tồn tại phát triển phải kể đến Thiền phái Lâm Tế với vai trò của Thiền sư Nguyên Thiều (1648 - 1728) và Thiền phái Tào Động với vai trò của Thiền sư Thích Đại Sán - Thạch Liêm (1633 - 1704).
Tên làng Hội An được tìm thấy đầu tiên, với một niên đại sớm nhất trong các tài liệu cổ còn để lại là chữ khắc trên tấm bia “Phổ Đà Sơn Linh Trung” ở động Hoa Nghiêm, trong lòng khối đá Ngũ Hành Sơn, bia được lập vào năm Canh Thìn - 1640. Chúng tôi đã khám phá nhiều bí ẩn ở trên bia, trong đó tên Hội An đã được ba lần nhắc đến cùng tên bốn người ở làng này là Nguyễn Văn Triều, Nguyễn Thị Đức, Nguyễn Thị Ngưỡng, Châu Thị Tân, mỗi người cúng 10 quan tiền để dựng chùa.