Nằm tại khu đất cách di chỉ Hậu Xá I chừng 200m về phía Nam là di tích khảo cổ Ruộng Đồng Cao. Di tích có tọa độ địa lý 15052’983’’ vĩ Bắc, 108019’135’’ kinh Đông, thuộc khối Lâm Sa, phường Cẩm Phô hiện nay. Di tích được phát hiện trong quá trình bóc dỡ lớp đất mặt ở một số thửa ruộng bởi cư dân địa phương vào năm 1998 và được Trung tâm Quản lý Bảo tồn Di tích Hội An (nay là Trung tâm Quản lý Bảo tồn Di sản Văn hóa Hội An) khai quật chữa cháy. 11 năm sau, di tích được Bảo tàng Nhân học thuộc Trường Đại học khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội phối hợp với Trung tâm Quản lý Bảo tồn Di sản Văn hóa Hội An đào thám sát và khai quật với tổng diện tích 15m2. Kết quả các lần đào thám sát và khai quật cho biết di tích Ruộng Đồng Cao có niên đại vào thế kỷ III, IV sau Công nguyên, tầng văn hoá tuy không dày lắm nhưng khá đồng nhất. Hiện vật trong di tích gồm đồ gốm, đồ đồng và đồ thuỷ tinh. Tuy đồ đồng và đồ thuỷ tinh có số lượng khá khiêm tốn nhưng ngược lại đồ gốm khá phong phú về loại hình lẫn số lượng, phản ánh tính đa dạng trong đời sống văn hoá, sự chuyển tiếp và giao lưu văn hoá trong những thế kỷ III, IV sau Công nguyên tại mảnh đất Hội An.
Người dân Hội An đã rất thân quen với giọng hô ngọt ngào, hài hước khi xướng lời thai các con cờ Bạch Tuyết, Thái Tử, Ngũ dụm, Nhì bí, Xe, Tám giây (bát nứt)của anh hiệu Bài chòi Nguyễn Đán trong mỗi đêm phố cổ. Anh Đán 55 tuổi, người ấp Hậu Xá, làng Thanh Hà, có nghệ danh là Lương Đán và đã có 15 năm gắn bó với hoạt động bảo tồn và phát huy di sản văn hóa Bài chòi.
Không chỉ là những con tò he, hòn binh hay vật dụng bằng đất nho nhỏ như xưa, bây giờ làng gốm Thanh Hà làm nên “duyên gốm” với công viên đất nung, với những sản phẩm mới đa dạng về mẫu mã từ chính vật liệu cũ và không gian vẫn như trăm năm trước...
(ICTPress) - Ngày 27/9, tại Hà Nội, Đèn lồng Hội An sẽ được tôn vinh là 1 trong 50 thương hiệu, nhãn hiệu nổi tiếng năm 2013. Người dân Hội An rất tự hào đón chào sự kiện này.
(ICTPress) - Đến thăm phố cổ Hội An, nhiều người sẽ không ngớt trầm trồ về lối kiến trúc của những ngôi nhà cổ. Nhưng không phải ai cũng biết đến một ngôi nhà cổ đặc biệt mang nhiều dấu ấn lịch sử dân tộc, đó là Từ đường tộc Nguyễn Tường.
Cù Lao Chàm có lịch sử hình thành và phát triển cách đây hàng ngàn năm, trải qua quá trình định cư và sinh sống, cư dân Cù Lao Chàm sống dựa vào nghề đánh bắt thủy hải sản, đốn củi bứt mây, trồng lúa… Nghề đánh bắt thủy hải sản là một trong những nghề chính có từ lâu đời ở Cù Lao Chàm, trong đó một nghề khá đặc trưng phải kể đến là nghề câu Kiều.
Một lần tình cờ vào Hội An, một vài người bạn đã kể cho tôi nghe những mẩu chuyện về trung phong Trần Văn Tứ, một huyền thoại của bóng đá phố Hội. Trần Văn Tứ mất năm Giáp Thân (1944) ngay trên sân Hội An khi mới bước sang tuổi 25.
Theo quan niệm của người Việt, mỗi vùng đất đều có vị thần Thổ Công hay Thành Hoàng cai quản và những vị thần này sẽ bảo hộ sự bình an cho nhân dân sinh sống làm ăn trên mảnh đất đó. Trong tâm thức chung, trong quá trình khai hoang lập làng, lập nghiệp, những cộng đồng làng/xã ở Hội An thường lập nên các công trình kiến trúc tín ngưỡng để thờ các vị thần này. Lăng Thành Hoàng ở khối Tân Thành - phường Cẩm An ra đời cũng không nằm ngoài ý nghĩa đó.
Làng mộc Kim Bồng thuộc xã Cẩm Kim, thành phố Hội An có lịch sử hình thành và phát triển khá lâu đời. Từ xưa, nhiều thế hệ thợ mộc của làng tham gia thi công các hạng mục quan trọng trong các cung điện, đền đài của vua chúa. Trải qua nhiều thế hệ, con cháu làng mộc tiếp nối truyền thống của cha ông trong việc giữ gìn và phát huy nghề mộc của địa phương, trong đó có nghệ nhân Huỳnh Sướng - một thợ trẻ có kinh nghiệm và tay nghề cao.
Những đêm nhạc trong không gian phố Hội đã chuyển tải nhiều thông điệp khác nhau, nhưng chung quy lại đều là “cái tình” của người xứ Quảng với môn nghệ thuật chạm vào tâm thức con người bằng cả giai điệu lẫn ca từ.
Vừa qua, tại phiên họp lần thứ 7, Hội đồng Di sản quốc gia đã công nhận 4 di sản văn hóa của các cư dân xứ Quảng là Di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia. Đó là Nghề dệt thổ cẩm, Vũ điệu tâng tung da dá của dân tộc Cơ Tu, Nghệ thuật trang trí trên cây nêu và bộ gu của dân tộc Co, Lễ hội rước cộ Bà Chợ Được.
Tuy không phải tất cả người Quảng Nam đều đã đọc tiểu thuyết võ hiệp nhưng gần như họ đều hiểu được nguyên tắc “Tiên phát chế nhân, hậu phát chế ư nhân” - Ra tay trước thì chế ngự được người, ra tay sau thì bị người chế ngự. Cho nên, họ phải tiên phát. Tất nhiên để có được những chiêu thức này, người nói gay phải “lập trình” sẵn, đợi đúng lúc thì đem ra dùng, y chang kiểu ta học võ để phòng thân.
Đến thôn Vạn Lăng xã Cẩm Thanh thành phố Hội An, hỏi ông Ba Đúng thì từ người nhỏ tuổi đến người lớn tuổi ai ai cũng biết và chỉ rành rọt đường vào nhà ông. Ông nổi tiếng không chỉ vì tài hát hò khoan kiến tại mà còn vì niềm đam mê với môn nghệ thuật bả trạo đặc trưng của ngư dân vùng sông nước. Ông Ba đúng tên thật Phạm Đúng sinh ra và lớn lên ở vùng sông nước Cẩm Thanh. Từ nhỏ Ông đã gắn bó với nghề biển cũng như các hoạt động lễ hội đặc trưng của người dân miền biển và những câu hát hò khoan, bả trạo đã ngấm trong ông từ khi nào cũng không rõ.
Đồng chí Trần Văn Thống sinh năm 1915, tại ấp Trường Lệ, làng Cẩm Phô, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, nay ấp Trường Lệ thuộc phường Cẩm Châu thành phố Hội An. Đồng chí Thống đã trải qua một giai đoạn tuổi trẻ sôi động gắn liền với những cuộc Cách mạng tháng tám ở Cẩm Phô.
Những phát hiện khảo cổ học đầu tiên vào những năm 1989, 1990, các nhà nghiên cứu nhận định khả năng tồn tại số lượng các di tích văn hóa Sa Huỳnh ở Hội An là rất lớn. Kết quả thực hiện dự án "nghiên cứu văn hóa mộ chum Sa Huỳnh" ở Hội An đã chứng tỏ điều đó. Các nhà khảo cổ học đã bóc lên từ lòng đất Hội An khối lượng đồ sộ các hiện vật bằng sắt, thủy tinh, đá và đặc biệt là đồ gốm thuộc văn hóa Sa Huỳnh từ nhiều địa điểm khảo cổ như Xuân Lâm, Hậu Xá I, Hậu Xá II, An Bang,... Cùng với đồ thủy tinh, đồ đá, thì đồ gốm cũng là một lĩnh vực chứng tỏ năng lực sáng tạo và khiếu thẩm mỹ phong phú, tuyệt vời của cư dân Sa Huỳnh Hội An. Qua những hiện vật gốm có thể hình dung được phần nào về đời sống tinh thần nói chung, mỹ thuật nói riêng của cư dân Sa Huỳnh trên đất Hội An thời Sơ sử.
Nếu bạn về chơi Quảng Nam, xin đừng phật lòng khi bị một ai đó nói gay với bạn. Người ta trách vậy là đang thương bạn đó. Và bạn nên nhìn cách nói gay của Quảng Nam theo góc tích cực, sẽ thấy được niềm vui.
Chùa Vạn Đức tọa lạc tại thôn Đồng Nà, xã Cẩm Hà, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam. Chùa Vạn Đức là một trong những ngôi chùa cổ thuộc thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh tại Hội An. Tổ khai sơn chùa Vạn Đức là Thiền sư Minh Lượng, hiệu là Nguyệt Ân, tự Thành Đẳng sinh năm Bính Dần (1626) tại Triều Châu, Quảng Đông, Trung Quốc. Vào nửa cuối thế kỷ XVII, thiền sư sang Việt Nam tham dự giới đàn trong tại chùa Thiền Lâm - Thuận Hóa. Sau đó, thiền sư vào cư ngụ tại Hội An, được một Phật tử hiến cúng khu đất tại thôn Đồng Nà, xã Thanh Hà, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn (nay là xã Cẩm Hà, thành phố Hội An) nên thiền sư lập một thảo am nhỏ để tu hành, và dần dần xây dựng thành một ngôi chùa có quy mô lớn lấy tên là Lang Thọ tự, chùa cây Cau sau đổi tên thành chùa Vạn Đức. Tại đây, thiền sư chuyên tâm thiền định, giảng giải Phật pháp cho các môn đồ, thiền sư đã đào tạo nhiều đệ tử có cống hiến cho Phật giáo Quảng Nam như Phật Tuyết - Tường Quang, Phật Hiền - Hoa Nghiêm, Phật Tường - Đức Liên… Chùa trải qua nhiều lần trùng tu, đặc biệt là lần trùng tu vào năm 1991 và giữ được nét kiến trúc như ngày nay.