Sau khi kết thúc binh loạn, vào năm 1802 Nguyễn Ánh lên ngôi lấy niên hiệu là Gia Long mở ra triều đại nhà Nguyễn, triều đại quân chủ cuối cùng của Việt Nam. Để an dân, ngoài các bộ luật được soạn thảo và đưa vào sử dụng, triều Nguyễn cũng có các chính sách khuyến khích nhân dân làm việc thiện. Việc này đã được thực hiện từ những năm đầu đời Gia Long, đến đời Minh Mạng được ban bố cụ thể và chi tiết hơn. Năm Minh Mạng thứ 3 vua xuống dụ: “bề tôi trung thành với vua, con cái có hiếu với cha mẹ, ông bà, con gái biết giữ gìn tiết hạnh, con trai làm việc nghĩa, người dân trong nước phải nên khuyến khích. Từ xưa, nêu cao người có hiếu, biểu dương người liêm chính, là để rèn luyện phong tục của nhân dân, làm cho sáng tỏ giáo hóa của vua. Trẫm kính nối cơ đồ vinh quang, mở rộng đường lối chính trị. Phàm có trung thần phong cho thờ cúng, liệt nữ, thưởng biển nêu khen, có đủ cả điển lệ. Những người con có hiếu, những kẻ nghĩa phu vẫn chưa được biểu dương, như thế là đường lối dạy dân thành tục tốt, còn lo chưa được đầy đủ. Chuẩn từ nay các thành, doanh, trấn đều nên để tâm tìm tòi. Phàm dân gian có hiếu tử đối với cha mẹ, thực hành rõ rệt, như những người con sớm tối hầu thăm, trước biết ý mà thuận theo, việc sống thì nuôi, chết thì chôn đều phải hết lòng theo đạo, trong làng xóm đều khen là hiếu tử, nghĩa phu, thấy tài lợi, lòng không chuyển động, như loại được vàng trả chủ, không hám lợi một cách cẩu thả, khi trả hay nhận, lấy hay cho, đều hợp với nghĩa lý, mà già trẻ đều tin là người thanh liêm. Cho phép hương lý kê khai rõ họ, tên, tuổi và quê quán, cam kết đúng sự thực. Quan trấn hạt ấy trình bày thực trạng cùng lời xét khai làm tờ tâu, do bộ Lễ tâu lên đợi chuẩn nêu thưởng để xứng với ý tốt của trẫm dạy bảo uốn nắn phong tục.”(1)
Đến năm 1834, Minh Mạng ban hành Thánh dụ huấn địch thập điều quy định các chính sách văn hóa giáo dục của triều đại, trong đó có đề cập đến vấn đề khuyến thiện trong dân chúng: “Lâu nay, trẫm đặc biệt ban thưởng cho những tiết phụ, trinh nữ ở các địa phương, hoặc cho xây dựng miếu thờ, hoặc đem ban cho biển ngạch nhằm mục đích khuyến khích những người trinh tiết trong thiên hạ. Mong các người là cha mẹ, anh em, các người biết dạy dỗ con em, nam giới thì lấy lễ phép ngăn mình làm việc xấu, nữ giới thì dùng trinh tiết để giữ mình, cái tình giữa nam và nữ phải trong sáng, thì đó là phúc lớn của đất nước vậy.”(2)
Như vậy, triều Nguyễn rất chú ý đến việc khuyến khích nhân dân làm việc thiện và có chính sách thưởng phạt rõ ràng. Ở Hội An cũng vinh dự có được những người con có hiếu, những người yêu việc nghĩa và những người phụ nữ biết giữ gìn tiết hạnh. Điều đó đến nay còn lưu lại và thể hiện ở các tấm biển của các gia đình được các đời vua triều Nguyễn ban tặng và đang gìn giữ như báu vật của gia đình, tộc họ. Theo thống kê chưa đầy đủ của Trung tâm Quản lý Bảo tồn Di sản Văn hóa Hội An, hiện nay trên địa bàn Thành phố có khoảng 5 bức biển có nội dung như trên của các gia đình ở Hội An đang gìn giữ và bài trí trong các ngôi nhà ở, nhà thờ. Nhà số 117 đường Trần Phú, phường Minh An có tấm biển vua ban vào tháng 5 năm Khải Định thứ 4, tấm biển được sơn son thiếp vàng với bốn chữ Hán lớn, đọc là “tiết hạnh khả phong” có nghĩa là người có tiết hạnh đáng được phong thưởng, dưới biển có dòng chữ Hán nhỏ với nội dung ban cho Tạ Thị Yến quê ở xã Minh Hương, tổng Phú Triêm, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, là người có tiết hạnh nên ban thưởng cho tấm biển này để sử dụng. Nhà số 43 đường Trần Phú, phường Minh An có tấm biển được vua ban cho ông Trịnh Lân vào đời Tự Đức năm thứ 33, tấm biển được sơn son thiếp vàng đề bốn chữ Hán lớn, đọc là “hiếu nghĩa khả phong”, có nghĩa là người yêu việc nghĩa đáng được phong thưởng. Nhà số 22 đường Nguyễn Thái Học cũng có tấm biển với nội dung tương tự như nhà số 43 đường Trần Phú.
Như vậy, những tấm gương đó là niềm tự hào của Hội An, một Thành phố có truyền thống văn hóa từ lâu. Các tấm biển đó là báu vật của các gia đình, tộc họ, qua đó để răn dạy con cháu trong gia đình, tộc họ tiếp nối truyền thống của ông bà tổ tiên. Đồng thời, các tấm biển này là di sản văn hóa văn tự, di sản văn hóa phi vật thể của Hội An rất đáng được quan tâm, bảo tồn và phát huy giá trị, giới thiệu với du khách khi đến Hội An. Thiết nghĩ, mặc dù thời đại quân chủ đã trôi qua hơn nữa thế kỷ, nhưng chúng ta nhưng không thể phủ nhận những giá trị về chính sách văn hóa của Triều đại này, đó cũng chính là văn hóa cổ truyền, thấm nhuần hệ tư tưởng của Nho gia, hệ tư tưởng giúp gìn giữ sự ổn định của xã hội cả nghìn năm trước và để lại nhiều giá trị mà đến ngày nay chúng ta vẫn còn gìn giữ.
Trong thời gian đến, Trung tâm Quản lý Bảo tồn Di sản Văn hóa Hội An sẽ có những chương trình sưu tầm các thể loại văn tự, trong đó, hoành phi câu đối là thể loại được ưu tiên quan tâm nhằm nhận diện đầy đủ và phát huy hiện quả các giá trị của nó trong tương lai.
Trích dẫn:
(1) Trích nguồn Sách Quốc sử Quán Triều Nguyễn, Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sử Lệ - Nxb: Thuận Hóa - Huế - năm 1993.
(2) Sách Huấn Địch Thập Điều của Vua Minh Mạng
Chú ý: Việc đăng lại bài viết trên ở website hoặc các phương tiện truyền thông khác mà không ghi rõ nguồn http://hoianheritage.net là vi phạm bản quyền