Dù nằm trong không gian Văn hóa Sa Huỳnh, nhưng gần 15 năm sau ngày giải phóng, Hội An vẫn là vùng trắng trên bản đồ khảo cổ nói chung, về Văn hóa Sa Huỳnh nói riêng. Tuy vậy, dựa vào thành tựu 10 năm nghiên cứu khảo cổ về Tiền - Sơ sử Xứ Quảng từ sau ngày giải phóng, với sự mẫn cảm khoa học, các nhà nghiên cứu đã nhận định khả năng tiềm tàng về di tích Văn hóa Sa Huỳnh trong lòng đất Hội An. Mùa điền dã khảo cổ năm 1989 của các cán bộ Trung tâm Văn hóa Việt Nam thuộc Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay là Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học quốc gia Hà Nội) và Ban Quản lý Di tích Hội An đã chứng minh nhận định này qua 03 di tích được phát hiện. Từ năm 1993 - 1995, với sự tài trợ của TOYOTA FOUNDATION, dự án nghiên cứu “Khai quật khảo cổ học về di tích Văn hóa mộ chum Sa Huỳnh ở thị xã Hội An” được thực hiện. Qua thực hiện dự án này, các nhà nghiên cứu đã phát hiện thêm nhiều di tích Văn hóa Sa Huỳnh ở Hội An. Đồng thời kết luận Hội An là nơi có mật độ phân bố di tích Văn hóa Sa Huỳnh khá dày đặc và có giá trị cao về mặt khảo cổ học.
Như một con tàu neo giữa lòng sông Thu Bồn, Cẩm Nam là một hòn cù lao nhỏ nằm cạnh phố cổ Hội An, được bao bọc xung quanh bởi sông nước từ các nhánh sông ở hạ lưu Thu Bồn trĩu nặng phù sa, tạo nên một vùng đất màu mỡ, trù phú, nuôi sống người dân nơi đây bằng các sản vật mà thiên nhiên ban tặng như hến, cá, tôm nước lợ, sắn, khoai, bắp bãi bồi…
Với vị thế là cụm đảo ven bờ, lại có nguồn tài nguyên trên rừng, dưới biển vô cùng phong phú nên từ thời Tiền Sơ sử, Cù Lao Chàm đã có con người sinh sống. Tại đây, bên cạnh nông nghiệp và lâm nghiệp, ngư nghiệp là sinh kế chính của người dân địa phương. Vì thế, đánh bắt thủy hải sản là nghề có truyền thống lâu đời, gắn liền với đời sống của cư dân xã đảo từ bao đời nay.
Từ sau tết Nguyên đán, khắp nơi các làng xã ở Hội An đều rộn ràng với lễ cúng cầu an (kỳ yên), lễ cúng đất và lễ cúng liên quan đến nghề nghiệp (cầu bông, cầu ngư hoặc cúng tổ nghề) - cả 3 lễ cúng này được tổ chức cùng ngày, hợp thành một lễ hội lớn đầu năm - Lễ hội mùa xuân. Riêng đối với cộng đồng cư dân người Hoa thì chỉ tập trung cúng tế vào ngày Tết Nguyên tiêu - ngày 16 tháng giêng.
Phố Hội An từ xưa vốn là nơi đô hội, khách thương hồ tứ xứ và khách buôn nước ngoài tập trung đông. Tại đây cũng có nhiều thương khách nước ngoài thường xuyên cư trú, đông nhất là khách Trung Hoa, Nhật Bản và một số nước phương Tây. Đô hội và đông đúc như vậy thì cộng đồng cư dân Hội An xưa đã đón tết như thế nào?
Mặc dù là một đảng bộ còn non trẻ, số lượng đảng viên ít, nhưng với sự nhạy bén, linh hoạt, Đảng bộ Quảng Nam đã lãnh đạo nhân dân toàn tỉnh khởi nghĩa thành công trong mùa thu cách mạng năm 1945.
Năm 1927, đồng chí Phan Thêm (tức Cao Hồng Lãnh) thành lập tổ chức Việt Nam Cách mạng Thanh niên Hội An tại nhà Đức An, số 129 Trần Phú hiện nay. Sự kiện này đã mở ra một thời kỳ đầu tiên cho phong trào cách mạng ở Hội An. Dưới các tác động của sự ra đời Tổ chức Việt Nam Cách mạng Thanh niên, Đảng Cộng sản Việt Nam và Tỉnh Đảng bộ lâm thời Quảng Nam, vào tháng 4/1930, Chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên của Hội An ra đời gồm 4 thành viên là đồng chí Hà Mùi - Bí thư Chi bộ và các thành viên là đồng chí Huỳnh Lắm, Trần Thị Dư, Nguyễn Vỹ. Trong bài viết này chúng tôi xin giới thiệu về những thành viên Chi bộ Cộng sản đầu tiên ở Hội An như một sự tưởng niệm, tri ân với những người đã góp công quan trọng gieo những hạt giống đỏ đầu tiên cho phong trào cách mạng Hội An.
Bước ngoặt cách mạng - Sau khi Hiệp định Paris được ký kết (27.1.1973), phong trào cách mạng miền Nam có nhiều chuyển biến. Trước tình hình đó, Đảng bộ Quảng Nam và Đảng bộ Quảng Đà mở Đại hội đại biểu Đảng bộ lần thứ X đề ra phương hướng nhiệm vụ mới. Đây là kỳ đại hội cuối cùng trong chống Mỹ, tạo bước ngoặt quan trọng hướng đến giải phóng quê hương.
Một thời đã sống - Dẫu rằng không ai muốn lịch sử dân tộc phải chịu nhiều thương đau, song thế hệ cô Phan Thị Thảo (Hội Tù yêu nước TP.Đà Nẵng) vẫn luôn tự hào về một thời mình đã sống.
Vững vàng trên mặt trận tư tưởng - Tháng 1.1960, Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ IV diễn ra tại thôn Adhur (A Duân) thuộc huyện Bến Hiên (nay là huyện Đông Giang). Đối với công tác tư tưởng, Đại hội nhấn mạnh: “Ở đồng bằng vừa tuyên truyền vừa móc nối xây dựng lại cơ sở đảng, rút thanh niên xây dựng lực lượng vũ trang. Công tác xây dựng Đảng là nhiệm vụ hàng đầu trong thời gian đến”. Từ đây, bộ máy Ban Tuyên huấn được thành lập lại, đánh dấu bước ngoặt quan trọng về mặt tổ chức, mở ra thời kỳ hoạt động và đóng góp mới của ngành đối với sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh. Cuối năm 1962, tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng tách thành hai tỉnh Quảng Nam và Quảng Đà. Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy cũng được tách thành hai. Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy Quảng Nam do đồng chí Trần Minh Mẫn làm Trưởng ban. Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy Quảng Đà do đồng chí Hà Kỳ Ngộ làm Trưởng ban. Mặc dù tách làm hai nhưng công tác tuyên huấn ở hai tỉnh vẫn luôn có mối quan hệ chặt chẽ, thường xuyên giúp đỡ lẫn nhau để hoàn thành nhiệm vụ được cấp ủy và nhân dân giao phó.
Trong những thế kỷ XVI-XIX, Hội An là một trung tâm kinh tế lớn của Đàng Trong, là một trong những thương cảng mậu dịch quốc tế phồn thịnh bậc nhất ở khu vực. Chính vì vậy, Hội An cũng là cửa ngõ của sự giao lưu, tiếp nhận nhiều nền văn hóa lớn ở bên ngoài, từ phương Đông đến phương Tây, của những tôn giáo lớn trên thế giới, trong đó có Thiên Chúa giáo.
Vững vàng trên mặt trận tư tưởng
Đi theo "Đường Kách mệnh"
Cuộc diễn tập đầu tiên: Sau khi ra đời, Đảng bộ tỉnh đã lãnh đạo nhân dân đứng lên đấu tranh hưởng ứng cao trào cách mạng 1930 - 1931. Đây là cuộc diễn tập đầu tiên để Đảng bộ tỉnh Quảng Nam rút ra bài học quý báu chuẩn bị cho thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Không phải ngẫu nhiên mà bánh tổ Hội An hiện hữu trong câu ca của người dân xứ Quảng: “Nem chả Hòa Vang/ Bánh tổ Hội An/ Khoai lang Trà Kiệu/ Thơm rượu Tam Kỳ”. Ngày tết, bánh tổ Hội An luôn có mặt trên các bàn thờ của người dân xứ Quảng như một nhắc nhớ: “Chim có tổ, người có tông”.
Trọn một hành trình của đất và lửa - say mê và khát vọng, như lẽ sống mà lão ông Nguyễn Lành và vợ, cụ bà Nguyễn Thị Chiến, đã chọn đi hơn 80 năm nay.
Vào khoảng thế kỷ XVI-XVII, đô thị thương cảng Hội An trở thành nơi buôn bán và trao đổi hàng hóa nhộn nhịp của xứ Đàng Trong, giai đoạn này nhiều ngành nghề có điều kiện hình thành và phát triển, trong đó có nghề y. Theo các tư liệu lịch sử cho biết, khi đến Hội An vào năm 1695, Thiền sư Thích Đại Sán ghi chép lại trong tác phẩm Hải ngoại kỷ sự như sau: “Hội An là một mã đầu lớn, nơi tập hợp của khách hàng các nước,… thuốc Bắc hay các món hàng khác, tìm mua ở Thuận Hóa không có thì người ta vào mua ở đây”. Hay những ghi chép của Lê Quý Đôn trong tác phẩm Phủ biên tạp lục cho ta thấy đương thời nghề thuốc ở Hội An rất phát triển, đa dạng và phong phú về chủng loại thuốc của địa phương “… ở Quảng Nam có rất nhiều vị thuốc như nhiều nhục quế, trầm hương, kỳ nam…”. Cristophoro Borri khi đến Hội An cũng đã miêu tả về nghề y trong tác phẩm Xứ Đàng Trong năm 1621 “...về các thầy thuốc, cách chữa bệnh, cách thức tính tiền, cách dùng thuốc, kiêng cữ... trong nghề y”.
Giữa nhịp chảy rất chậm của phố bên dòng sông Hoài, hẻm nhỏ là nơi thời gian và ký ức dường như dừng lại. Cứ thế, ngồn ngộn những tháng năm, những hoài nhớ gom góp trong hẻm nhỏ rêu xanh, mặc cho những tấp nập dưới ánh đèn phố thị ngoài kia.