1. Miền Trung - Tiềm năng kinh tế và các tuyến giao thương Sau các phát kến địa lý cuối thế kỷ XV đầu thế kỷ XVI, các nước phương Tây mà tiên phong là Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha bắt đầu thâm nhập đến nhiều quốc gia châu Á. Sự bùng nổ của Thời đại thương mại (
Age of Commerce) được bắt đầu bởi nhiều sự kiện diễn ra đồng thời ở nhiều vùng đất khác nhau. Việc Bồ Đào Nha khai thác mỏ bạc Potosi ở Peru năm 1545 và sau đó là bạc và đồng của Nhật Bản đã mở ra vận hội mới cho nước này trong việc tiến hành các hoạt động thương mại với các quốc gia phương Đông. Thương nhân Bồ Đào Nha đã dùng bạc của Peru, Nhật Bản... để mua hương liệu của Malacca, vải bông của Ấn Độ, tơ lụa và gốm sứ của Trung Hoa đem về thị trường châu Âu tiêu thụ.
Trong khi đó, nhiều nền kinh tế khu vực, đặc biệt là Trung Quốc cũng cần các kim loại quý như bạc, đồng của Peru, Nhật Bản để đúc tiền đồng, bạc nén và vũ khí. Tranh thủ những điều kiện thuận lợi, Bồ Đào Nha đã thâm nhập vào nhiều thị trường châu Á và châu Mỹ để kiếm lợi. Họ đã lập nên các thương điếm Kyushu (Nhật Bản), Quảng Châu, Ma Cao (Trung Quốc) nhằm trực tiếp tiến hành các hoạt động thương mại với các quốc gia phương Đông. Nguồn lợi thương mại lớn thu được từ các thị trường phương Đông cũng đã lôi kéo các nước Tây ban Nha và sau đó là Anh, Hà Lan, Pháp v.v… cùng đến các xã hội châu Á thiết lập quan hệ giao thương. Từng bước, các cường quốc châu Âu đã cho mở thương điếm ở Hirado, Nagasaki (Nhật Bản), Java, Sumatra (Indonessia), Manila, Luzon (Philippines), Phnom Penh, Pinalu (Campuchia), Ayutthaya (Xiêm La), Phố Hiên, Hội An (Việt Nam)… Vượt lên các hoạt động của Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, một số “Cường quốc tư bản trẻ” còn cho lập các công ty Đông Ấn để tập trung nguồn lực và đẩy mạnh quan hệ với phương Đông. Trong bối cảnh đó, Công ty Đông Ấn Anh (EIC) và Công ty Đông Ấn Hà Lan (VOC), Công ty Đông Ấn Pháp (CIO) đã được thiết lập
[1]. Một thời đại mới trong thương mại châu Á và giao thương quốc tế bắt đầu.
Trong khi đó, vào thế kỷ XVI-XVIII cùng với sự hình thành, phát triển của Đàng Trong, một trung tâm quyền lực mới ở miền Trung đã được thiết lập. Sự nghiệp khai phá, phát triển miền Trung/ Đàng Trong, gắn với công tích của các chúa Nguyễn, với các cuộc di dân mà chủ yếu cũng là từ miền Trung, từ các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh theo
Chúa Tiên Nguyễn Hoàng (cq:1558-1613) vào Nam mở cõi. Trên thực tế, sự nghiệp kinh dinh dải đất miền Trung của chúa Nguyễn vừa là một quá trình phục hưng những thành tựu, di sản của thời đại Champa trước đây vừa gắn liền với công cuộc khai phá, tái khai phá và nhân lên các tiềm năng vốn có của miền Trung trong bối cảnh mới. Trong quá trình đó, chính quyền Đàng Trong đã tự khẳng định vị thế của mình, mở mang không gian lãnh thổ, xác lập, bảo vệ và khẳng định chủ quyền lãnh thổ, biển đảo đồng thời tự lựa chọn cho mình một con đường và mô hình phát triển phù hợp
[2]. Có thể nói, con đường mà chúa Nguyễn lựa chọn là phương cách “Phi truyền thống”. Theo đó, chính quyền Đàng Trong vừa phải thích ứng với môi trường sinh thái, điều kiện chính trị và xã hội mới vừa phải mau chóng nắm bắt và hội nhập với thế giới bên ngoài. Phân tích các tiềm năng, động lực phát triển của Đàng Trong, các chúa Nguyễn từ Nguyễn Hoàng, Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1634) đến Nguyễn Phúc Lan (1635-1648), Nguyễn Phúc Tần 1648-1687), Nguyễn Phúc Chu (1691-1725)… đều đặc biệt coi trọng kinh tế đối ngoại đồng thời coi kinh tế đối ngoại là nền tảng cho sự phát triển kinh tế - xã hội, củng cố vị thế chính trị của chính thể quân chủ.
Do tác động của những điều kiện lịch sử mới, vượt lên các không gian truyền thống, cư dân miền Trung/ Đàng Trong không chỉ có sự giao lưu, tiếp xúc với các nền văn hóa Đông Nam Á, với Trung Hoa, Ấn Độ và Tây Á... mà còn mở rộng tới nhiều trung tâm kinh tế, thị trường xa xôi khác. Trong quá trình đó, nhìn nhận sự hợp luyện văn hóa ở Đàng Trong thế kỷ XVI-XVIII ta thấy, trong các vòng tiếp giao kinh tế, văn hóa sự giao lưu kinh tế, kỹ thuật và tri thức giữa người Việt với người Chăm và giữa người Việt, người Chăm với người Hoa, người Nhật… là rất sâu đậm. Kết quả là, ở miền Trung đã hình thành một dòng mạch đồng thời là một phức hệ kinh tế, văn hóa đa sắc diễn tiến liên tục trong nhiều thế kỷ
[3]. Trong quá trình khai phá, khẳng định chủ quyền ở dải đất miền Trung, người Việt đã kế thừa truyền thống kinh tế biển, tư duy hướng biển, kỹ thuật đóng thuyền, kỹ năng khai thác các nguồn tài nguyên trên đất liền và cả trên biển của người Chăm. Họ cũng tiếp nhận tri thức buôn bán; nắm bắt cách phân tích, định giá các nguồn hàng và cả cách thức kết nối bạn hàng, hội nhập với các tuyến giao thương truyền thống của người Chăm, người Hoa, người Nhật và nhiều cộng đồng cư dân khác để mở rộng, đẩy mạnh bang giao quốc tế. Trong hơn 2 thế kỷ (1627-1789), vượt lên biết bao những gian nan, thách thức, các chúa Nguyễn đã từng bước làm chủ một không gian (
space) và môi trường (
environment) kinh tế rộng lớn. Việc làm chủ các không gian lãnh thổ, cư dân, nguồn tài nguyên, thương cảng mà tiêu biểu là: Thanh Hà, Hội An, Nước Mặn, Hà Tiên v.v... đã bảo đảm những điều kiện cần thiết cho sự phát triển của Đàng Trong.
Khác với hai miền Bắc, Nam, miền Trung có cả một hệ thống cảng trải dọc từ Thanh Hóa đến Ninh Thuận - Bình Thuận. Tiếp nối các hoạt động giao thương truyền thống, vào thế kỷ XVI-XVIII (trong sự quản chế của chính quyền Lê - Trịnh), các cảng phía bắc Trung Bộ từ vùng Lạch Trường (Thanh Hóa) đến Hội Thống (Nghệ An), Kỳ Ninh - Vạn Hoa (Hà Tĩnh)… vẫn duy trì nhiều hoạt động giao thương trong nước, quốc tế. Nhiều nguồn sử liệu Việt Nam và Nhật Bản đều cho thấy, năm 1609, thuyền buôn Nhật Bản (thuyền trưởng Giác Tàng) đã đến Phục Lễ (Hưng Nguyên, Nghệ An). Phủ Chúa (chắc hẳn là Trịnh Tùng, 1570-1623) đã chỉ thị cho quan trấn thủ Nghệ An, Phó tướng Tứ quận công Ngô Phúc Tinh điều tra kỹ lưỡng về hải trình, mục tiêu, hàng hóa… của thuyền buôn này
[4].
Với Đàng Trong, cùng với Chiêm Cảng (Hội An, Faifo...) ở vùng cửa sông Thu Bồn, một đầu mối, trung tâm kinh tế quan trọng bậc nhất của vương quốc Champa từ thế kỷ X-XV, là cảng biển Thi Nại ở cửa sông Côn gần với kinh đô Vijaya (Bình Định)
[5] cũng đã có nhiều phát triển trong bối cảnh mới. Thi Nại từng là “Quốc cảng” của Champa và thực sự là một thương cảng quốc tế, nơi đón nhận nhiều đoàn thuyền buôn và chiến thuyền các nước
[6]. Nhưng, từ sau năm 1471, thương cảng này thuộc về sự kiểm soát của Đại Việt
[7]. Cũng cần phải nói thêm là, vào đầu thế kỷ XV, trong vòng 28 năm (1405-1433) theo lệnh của Minh Thành Tổ, Trịnh Hòa (Zheng He, 1371-1433) đã 7 lần chỉ huy hạm đội lớn tiến xuống vùng biển Đông Nam Á và Tây Nam Á... Trong 7 chuyến đi đó, Trịnh Hòa đều cho hạm đội từ Nam Kinh tập trung ở Phúc Kiến rồi từ đó tiến đến cảng Chiêm Thành (
Chan-ch’êng). Có thể khẳng định rằng, đó chính là cảng Thi Nại (Nước Mặn) của Champa. Từ cảng thị này, hạm đội của Trịnh Hòa đã chia thành nhiều phái bộ tỏa đến các quốc gia Đông Nam Á để rồi từ đó tiến sang Tây Nam Á và bờ Đông của lục địa châu Phi
[8].
Trong thế cuộc bấy giờ, các chúa Nguyễn đều thấu hiểu rằng, nền kinh tế nông nghiệp dù vững mạnh cũng không thể đáp ứng tất cả những nhu cầu bảo tồn, phát triển đa dạng của một chính thể. Vì thế, Đàng Trong luôn cần và hướng đến một sự phát triển toàn diện, tức là cần phải huy động, khơi dậy tiềm năng, động lực của các nguồn lực xã hội, các lĩnh vực kinh tế khác như: Công nghệ khai thác, thủ công nghiệp, thương nghiệp trong đó có ngoại thương. Trên một bình diện rộng lớn hơn, chính quyền Đàng Trong nhận thức rõ rằng, để xây dựng và củng cố chính thể cần có một nền tảng kinh tế mạnh, một tư duy mang tính khai mở để nắm bắt cơ hội, thâu nhận và nhân lên các tiềm năng, sức phát triển cho chính thể đồng thời cũng nhằm thỏa mãn khát vọng của nhiều bộ phận cư dân đang mong muốn vươn lên tìm kiếm những vận hội mới.
Thực hiện chủ trương đó, song song với việc thực thi các chính sách khai phá, chính quyền Đàng Trong đã thiết lập, củng cố mối quan hệ, giao thương liên quốc gia trong đó có mạng lưới giao thương hàng hải với các nước Đông Á trong đó có Nhật Bản. Nhận thấy tiềm năng to lớn và sự tin cậy của thị trường này, các chúa Nguyễn đã không chỉ thiết lập mối quan hệ trực tiếp với chính quyền Edo mà còn huy động các nguồn lực, hàng hóa, tiềm năng của thị trường khu vực để giao thương với Nhật Bản. Vì thế, vào thế kỷ XVI-XVII hoạt động của các tuyến thương mại truyền thống: “
Đông Dương châm lộ” và “
Tây Dương châm lộ” (hình thành vào thế kỷ X-XI) đã tiếp tục được phát huy trong bối cảnh mới. Điều đáng chú ý là, cùng với các thương nhân châu Á, hoạt động giao thương quốc tế của Đàng Trong còn có sự tham gia và can dự ngày càng mạnh mẽ của nhiều Công ty Đông Ấn, tập đoàn thương mại phương Tây. Tuy nhiên, do luôn có khả năng làm chủ tình thế chính trị và xử lý tốt các mối quan hệ quốc tế nên chính quyền Đàng Trong đã chủ động điều phối, giữ được sự cân bằng trong bang giao quốc tế. Có thể khẳng định rằng, hoạt động kinh tế đối ngoại đã góp phần quan trọng trong việc chấn hưng nền kinh tế, củng cố sức mạnh của các chúa Nguyễn. Chính sách đối ngoại chủ động, tích cực đó cũng thể hiện tầm nhìn và tầm ảnh hưởng rộng lớn của chính quyền Đàng Trong trong bối cảnh chính trị khu vực có nhiều diễn biến phức tạp thời bấy giờ
[9].
Trên một không gian lãnh thổ tương đối hẹp bởi sự khống chế của các dãy núi, cao nguyên phía Tây và không có được những châu thổ thực sự rộng lớn nhưng nhờ có nhiều eo, vịnh biển và vùng cửa sông nằm giáp với tuyến thương mại cận duyên của Đông Nam Á nên các thương cảng miền Trung có thể kết nối dễ dàng với nhiều trung tâm kinh tế, thị trường khu vực Đông Á. Vì thế, đúng như GS. Trần Quốc Vượng từng nhận xét: “Biển không đóng vai trò và vị thế
địa - văn hóa chia lìa mà đóng vai trò, vị thế nối liền, gạch nối, liên kết , liên lạc… “Con đường gốm sứ” quốc tế là con đường biển. Đường thương mại quốc tế thời cổ, đường di cư dân chúng, tộc người, đường giao lưu văn hóa, tôn giáo từ hàng ngàn năm trước, sau Công nguyên là xuyên Thái Bình Dương (
Trans Pacific), xuyên Ấn Độ Dương và nhất là đường ven biển nối từ cảng Alexandrie trên bờ Địa Trung Hải đến Quảng Châu, Phúc Kiến, Chiết Giang… (Trung Hoa). Con đường ấy đi qua Biển Đông mà phần miền Trung… được các bản đồ và sách vở Arập từ thế kỷ VIII đến thế kỷ XIII ghi là “Biển Champa”
[10].
Trong thế cuộc phân tranh Trịnh - Nguyễn, xứ Đàng Trong mau chóng nổi lên như một vùng đất giàu có. Do nằm ở trung điểm của một trong những tuyến chính của hệ thống giao thương châu Á nên các thương cảng như Cửa Việt, Cửa Tùng, Thanh Hà, Hội An, Nước Mặn... đều có thể phát huy những tiềm năng phát triển và trở thành các thương cảng quan trọng của Đàng Trong. Đến Đàng Trong năm 1618-1621, giáo sĩ người Ý là Cristoforo Borri từng hết sức ngạc nhiên về vị trí tự nhiên của các thương cảng. Theo ông, chỉ trong khoảng hơn 100 dặm nhưng ở vùng duyên hải Đàng Trong có đến 60 hải cảng, “tất cả đều rất thuận tiện để cập bến và lên đất liền... Hải cảng đẹp nhất, nơi tất cả người ngoại quốc đều tới và cũng là nơi có hội chợ danh tiếng chính là hải cảng thuộc tỉnh Quảng Nam”
[11].
Từng trải nghiệm qua nhiều vùng đất nhưng khi đến Đàng Trong, giáo sĩ Alexandre de Rhodes cũng cho rằng: “Họ rất giàu vì có đất đai phì nhiêu với 24 con sông cung cấp nước, cũng nhờ đó mà rất tiện việc đi lại bằng đường sông ngòi, tiện việc thông thương và hành trình”
[12]. Về tiềm năng của vị trí địa lý tự nhiên, nhà bác học thế kỷ XVIII Lê Quý Đôn (1726-1784) nhận xét: “Xứ Thuận Hóa, đường thủy đường bộ liên tiếp tới xứ Quảng Nam, phía hữu xứ Quảng Nam lại thông với các nước phiên, về đường biển thì cách tỉnh Phúc Kiến, tỉnh Quảng Đông không đến 3 - 4 ngày, cho nên thuyền buôn từ trước đến tụ hội ở đấy”
[13]. Như vậy, đến thế kỷ XVI-XVII, do những tiến bộ về kỹ thuật đóng thuyền và tri thức hàng hải, nhiều đoàn thuyền lớn của các quốc gia châu Á không nhất thiết phải tuân thủ theo các tuyến hải thương truyền thống nữa. Từ miền nam Trung Hoa hay Nhật Bản, các đoàn thuyền buôn có thể tiến thẳng đến các cảng Đông Nam Á. Do vậy, các cảng miền Trung trong đó có Hội An trở thành đầu mối giao thương trực tiếp với các trung tâm kinh tế lớn khu vực
[14].
Theo
Phủ biên tạp lục chúng ta cũng thấy, vào thế kỷ XVII-XVIII các cảng Đàng Trong luôn là điểm đến của các thuyền buôn từ Thượng Hải, Quảng Đông, Phúc Kiến, Hải Nam (Trung Quốc), Nhật Bản, Lữ Tống (Luzon), Cựu Cảng (Philippines), Xiêm La (Thái Lan), Mã Cao (Bồ Đào Nha), Hà Lan
[15]... Các tàu, thuyền buôn quốc tế không chỉ đến thu mua hàng hóa mà còn đem theo nhiều nguồn thương phẩm mà thị trường Đàng Trong và khu vực cần. Mặt khác, như là kết quả của sự phát triển tương hỗ, sự thịnh đạt của hệ thống thương cảng Đàng Trong luôn có sức hấp dẫn lớn, lôi cuốn nhiều dòng thiên di và cư dân khu vực mang hàng hóa, chế phẩm đến các cảng thị để trao đổi, buôn bán
[16]. Trên thực tế, hệ thống thương cảng Đàng Trong đã có nhiều sự kết nối với các không gian kinh tế:
Châu thổ với
Rừng núi,
Biển với
Lục địa theo cả bốn chiều Nam - Bắc, Đông - Tây. Nguồn hàng từ vùng núi cao mà giới học giả đương thời gọi là “
Nguồn” đã theo các triền sông cùng nhiều con đường khác nhau dồn tụ về các cảng cửa sông. Chính các nguồn hàng đó, từ trên núi xuống và biển về, đã bổ sung và là sản phẩm không thể thiếu cho hoạt động thương mại Đàng Trong trong nhiều thế kỷ
[17].
Điều đáng chú ý là, Đàng Trong nói chung, xứ Quảng nói riêng là một vùng đất hết sức trù phú về tài nguyên thiên nhiên, trong đó có nhiều nguồn tài nguyên còn chưa được khai phá. Bên cạnh đó, do chịu sự chi phối của Hệ sinh thái phổ tạp (
General ecosystem), Đàng Trong nổi lên như một “Vương quốc” phồn thịnh, có nhiều đặc sản giá trị. Trong tác phẩm
Phủ biên tạp lục, học giả Lê Quý Đôn từng cho rằng: “Xứ Quảng là đất phì nhiêu nhất thiên hạ. Người Thăng Hoa, Điện Bàn biết dệt vải lụa, vóc đoạn, lĩnh là, hoa màu khéo đẹp chẳng kém Quảng Đông, ruộng đồng rộng rãi, lúa gạo tốt đẹp, trầm hương, tốc hương, sừng tê, ngà voi, vàng bạc, đồi mồi, trai ốc, bông, sáp, đường mật, dầu sơn, cau, hồ tiêu, cá muối, gỗ lạt, đều sản xuất ở đây. Ba phủ Quy Nhơn, Quảng Ngãi, Gia Định thì thóc gạo không kể xiết, khách buôn phương Bắc quen khen không bao giờ ngớt”
[18]. Như vậy, Đàng Trong, đặc biệt là xứ Quảng, là vùng đất giàu có. Chính nhờ tiềm năng to lớn đó mà chúa Nguyễn mới có thể đẩy mạnh quan hệ giao thương với thế giới bên ngoài.
2. Hội An - Trung tâm giao thương khu vực và quốc tế Khi vào khai phá đất Đàng Trong năm 1558, tuy mới ngoài 30 tuổi nhưng Nguyễn Hoàng (1524-1613), với tầm nhìn chiến lược và những biện pháp thận trọng, ông đã chuẩn bị những bước đi lâu dài cho việc xây dựng và phát triển của một chính thể lâu dài. Để thu phục nhân tâm và cũng là để giữ sự bình yên cho chính thể, Nguyễn Hoàng đã ra sức: “vỗ về quân dân, thu dùng hào kiệt, sưu thuế nhẹ nhàng, được dân mến phục, bấy giờ thường xưng là
Chúa Tiên. Nghiệp đế dựng nên thực là xây nền từ đấy”
[19].
Thời gian Nguyễn Hoàng xây dựng và củng cố chính quyền Đàng Trong cũng là thời đại hưng thịnh của hệ thống thương mại Châu Á và thế giới
[20]. Đó là “Thời đại hoàng kim” (
Golden age) đối với nền kinh tế hải thương của nhiều quốc gia khu vực. Để phát triển, Đàng Trong đã hội nhập mau chóng với mô hình phát triển chung của hầu hết các quốc gia Đông Á. Dựa vào sức mạnh của kinh tế công thương, như một yêu cầu tất yếu, chúa Nguyễn đã cho khôi phục vị thế của Chiêm Cảng. Tên gọi Faifo (Hải phố - Hội An) trở thành địa chỉ quen thuộc của nhiều thương nhân khu vực và quốc tế. Nhưng không chỉ Hội An, một hệ thống cảng miền Trung vốn có truyền thống từ thời đại Champa cũng được phục hồi trong bối cảnh kinh tế, chính trị mới
[21]. Trong đó, các thương cảng như Thanh Hà (Huế) ở phía bắc và Nước Mặn (Bình Định) ở phía nam vừa là những thương cảng phát triển độc lập vừa nằm trong hệ thống và có mối quan hệ mật thiết, tương hỗ cho Hội An. Trên thực tế, với sự dự nhập, hỗ trợ bởi các trung tâm sản xuất và khai thác, các thương cảng miền Trung đã tạo nên một hệ thống liên kết với vai trò điều phối của Hội An. Hội An là cảng trung tâm của Đàng Trong đồng thời cũng là một thương cảng chính yếu của Đàng Trong đã được quốc tế hóa.
Do có các chính sách hợp thời và hợp lòng người mà chính quyền Đàng Trong đã tập trung được quyền lực, duy trì được sự ổn định xã hội đồng thời thúc đẩy sự phát triển của kinh tế hàng hóa. Đó chính là những tác nhân bên trong (
endogenous factors) dẫn đến sự xuất hiện của hàng loạt đô thị và cảng thị trong đó tiêu biểu là đô thị cảng Hội An. Từ một Chiêm cảng bị suy tàn, Hội An đã mau chóng phục hưng và trở thành trung tâm thương mại lớn ở khu vực Đông Nam Á. Từ cuối thế kỷ XVI, Hội An đã trở thành trung tâm kinh tế đối ngoại (
entrepôts) quan trọng nhất của Đàng Trong và là một trong những thương cảng quốc tế trọng yếu trong tuyến giao thương Đông Á
[22]. Cảng thị này đã trở thành một
Trung tâm liên vùng[23] để cùng với Goa (Ấn Độ), Ayutthaya (Siam), Malacca (Malaysia), Batavia (Indonesia), Luzon (Philippines)... nối kết với Formosa (Đài Loan), Macao, Hạ Môn (Trung Quốc) Deshima (Nhật Bản), Pusan (Hàn Quốc) để tạo nên một hệ thống thương mại có độ liên kết chặt và tương đối hoàn chỉnh của châu Á.
Trong các mối quan hệ đa dạng của Đàng Trong, thương nhân và các giáo sĩ Bồ Đào Nha đã đến xứ Cochinchina sớm nhất. Từ năm 1515, thuyền buôn Bồ Đào Nha đã đến Faifo và từ năm 1540 thì cập bến thường xuyên thương cảng này
[24]. Đến đầu thế kỷ XVII, không chỉ có các thương nhân châu Á, hầu hết các cường quốc thương mại châu Âu như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan, Anh… đều đến Hội An buôn bán
[25]. Với các quốc gia châu Á, giới thương nhân Trung Hoa, Nhật Bản đã nhận được nhiều điều kiện ưu đãi trong việc buôn bán với chính quyền Đàng Trong. Có thể nói chưa bao giờ trong lịch sử thương mại Việt Nam nền kinh tế ngoại thương lại có quan hệ rộng mở, đa dạng và phát triển hưng thịnh như giai đoạn thế kỷ XVI-XVII. Hầu hết các cường quốc kinh tế thời bấy giờ đều đến thiết lập quan hệ, giao thương với Đàng Trong.
Là một
Thể chế biển, luôn triệt để phát huy truyền thống khai thác biển, phát triển giao thương và giao lưu văn hóa trên biển
[26], chính quyền Đàng Trong đã sớm nhận thấy kinh tế ngoại thương chỉ có thể tồn tại, phát triển trong hệ thống. Vì thế, cùng với việc củng cố các trung tâm sản xuất thủ công, khai thác nguyên liệu, chúa Nguyễn cũng có nhiều biện pháp bảo vệ và mở rộng hoạt động của các thương cảng. Sau năm 1672, khi cuộc xung đột Trịnh - Nguyễn chấm dứt, chúa Nguyễn đã đẩy mạnh khai phá vùng đất phương Nam, mở rộng ảnh hưởng đến các vùng châu thổ sông Đồng Nai và cuối cùng là châu thổ Mekong. Nhờ đó, đến thế kỷ XVIII cùng với Thanh Hà, Hội An, Nước Mặn..., các cảng như Đồng Nai, Sài Gòn, Hà Tiên đều trở thành thương cảng trọng yếu của Đàng Trong. Thông qua hoạt động của các thương cảng mà “Chúa đã thu được nhiều lợi nhuận lớn trong việc buôn bán bằng thu thuế hàng hóa cũng như thuế hải khẩu ngài đặt ra và cả nước đều kiếm được nhiều mối lợi không thể tả hết”
[27].
Với các thương nhân châu Á, vốn đã có mối quan hệ mật thiết với các thương cảng miền Trung từ thời đại Champa, đến thế kỷ XVI-XVII các thương nhân Trung Quốc, Xiêm La, Chân Lạp, Patani, Java, Manila và Nhật Bản đã thường xuyên đến Hội An và các cảng miền Trung buôn bán. Theo quan sát của Thomas Bowyear, được A.Lamb ghi chép lại, thì trong khoảng năm 1695 hàng năm có khoảng từ 10 đến 12 thuyền buôn Trung Hoa đến Hội An buôn bán
[28]. Nhưng khi chính quyền Edo (1600-1868) hạn chế thuyền buôn Trung Hoa đến Nhật Bản thì trong các năm (1740-1750), số thuyền của Hoa thương đến Đàng Trong đã tăng lên mỗi năm chừng 80 chiếc. Trong tác phẩm
Oost-Indische Compagnie en Quinam (Công ty Đông Ấn ở Quảng Nam) thương nhân người Hà Lan W.J.M Buch cũng cho rằng: “Lý do khiến cho có nhiều thương gia như vậy từ Trung Hoa đến Quảng Nam là vì có thể tìm thấy ở đây một trung tâm buôn bán với các nước và vùng lân cận. Hồ tiêu được chở tới đây từ Palembang, Pahang và các vùng khác; long não từ Borneo, gỗ vang, ngà voi,… đồ sứ thô và các hàng hóa khác. Với những gì còn lại, họ có thể mua thêm hồ tiêu, ngà voi, bột gia vị, bạch đậu khấu của Quảng Nam v.v… Do đó thuyền của họ chở về Trung Hoa thường là đầy hàng”
[29].
Cũng cần phải nói thêm rằng, sau khi nhà Thanh thay thế nhà Minh năm 1644, đã có những cuộc di cư lớn của người Hoa (Hán) đến các quốc gia Đông Á. Các đợt di cư đó đã dẫn đến mức độ tập trung cao của các cộng đồng Hoa kiều ở các thành thị, thương cảng khu vực. Vì lẽ sinh tồn, họ đã ra sức bao chiếm nhiều lĩnh vực, hoạt động kinh tế ở Đông Á. Trong khi đó, vị trí của người Ấn trong mạng lưới giao thương khu vực lại trở nên mờ nhạt. Thay vào đó là sự hiện diện ngày một thường xuyên của các tập đoàn thương mại, công ty Đông Ấn châu Âu. Dựa vào các hải đoàn mạnh, vũ khí hiện đại và nguồn hàng phong phú… các thương nhân châu Âu đã thâm nhập vào thị trường khu vực, giành đoạt quyền lợi với các thương nhân Đông Á để rồi, như lịch sử đã cho thấy, hình thành thế cuộc vừa đối đầu (
confrontation) vừa hợp tác (
cooperation) giữa các tập đoàn thương nhân. Trong nhiều thế kỷ, cùng với các thương nhân Châu Á các thương nhân phương Tây đã thâm nhập vào nhiều hoạt động của các thương cảng. Không chỉ đưa hàng đến nơi đô hội thương nhân phương Tây còn tổ chức mạng lưới buôn bán đến cả các vùng núi cao để mua bán, đổi lấy ngà voi, hồ tiêu, sừng tê, da hươu, gỗ quý, các nguồn lâm sản, bạc, đồng và thiếc...
Với Nhật Bản, sau những thăm dò ban đầu và xung đột quân sự vì “hiểu nhầm”
[30] (sự kiện Bạch Tần Hiển Quý năm 1585), đến đầu thế kỷ XVII, chính quyền Edo (1600-1868) đã chính thức thiết lập quan hệ với Đàng Trong. Từ đó, cho đến khi Nhật Bản thực thi chính sách tỏa quốc (1639-1853), các thuyền buôn Châu ấn (
Shuin-sen) của Nhật Bản đã đến nhiều thương cảng của Việt Nam để buôn bán. Với Đàng Trong, các thương nhân Nhật Bản đã trở thành những bạn hàng trọng yếu của “Quảng Nam quốc”
[31]. Như vậy là, cùng với thương nhân Trung Hoa, đến đầu thế kỷ XVII hệ thông giao thương Đông Á đã có thêm một thế lực doanh thương mới, có tiềm lực kinh tế lớn, hoạt động tích cực và hiệu quả trên nhiều thị trường khu vực
[32]. Để tiếp tục thắt chặt mối quan hệ với Nhật Bản, năm 1619 chúa Nguyễn Phúc Nguyên còn gả con gái cho thương nhân Nhật Bản Araki Sotaro, cho phép người Nhật (và cả giới Hoa thương) lập hội quán, phố Nhật kiều, Hoa kiều để buôn bán lâu dài. Chúa Nguyễn còn cho họ quyền tự quản, tự bầu nên trưởng khu để thực hiện quyền “
ngoại trị pháp quyền”, tự điều hành các hoạt động buôn bán và quản lý cộng đồng cư dân Nhật Bản. Chúa Nguyễn đã bày tỏ sự tôn trọng truyền thống văn hóa, phong tục và luật pháp Nhật Bản. Theo đó, từ năm 1633-1672 đã có 6 người Nhật thay nhau giữ trọng trách đó. Họ là những người có thế lực lớn trong cộng đồng người Nhật và được chúa Nguyễn tin cậy
[33].
Có thể thấy, cùng với việc tự khẳng định chủ quyền của mình ở Đàng Trong như một thể chế kinh tế - xã hội và chính trị độc lập, việc chúa Nguyễn kiên quyết bảo vệ chủ quyền, góp phần cùng với các quốc gia trong khu vực giải trừ nạn hải tặc, đem lại môi trường ổn định cho giao thương quốc tế đã khiến cho chính quyền Nhật Bản và các tập đoàn thương nhân khác phải có ý thức đầy đủ hơn về chủ quyền của Đàng Trong, nhìn nhận chính quyền này như là một chính thể mạnh trong quan hệ quốc tế cũng như các mối giao thương khu vực. Tuy nhiên, sau một thời kỳ hoạt động nhộn nhịp, đến những năm 1635-1639, vì nhiều nguyên nhân, chính quyền Edo đã thực thi chính sách tỏa quốc (
sakoku) không cho phép thuyền buôn Châu ấn (
Shuin-sen) ra nước ngoài. Lập tức giới thương nhân Trung Hoa đã chiếm lĩnh thị trường khu vực. Do thu được nhiều mối lợi từ thị trường Đàng Trong, nhiều Hoa thương quê Quảng Châu, Phúc Kiến, Hải Nam… đã trở thành những nhà kinh doanh lớn, giàu có. Do Nhật Bản thực thi chính sách tỏa quốc, cùng với thương nhân Hà Lan, giới Hoa thương đã đóng vai trò trung gian trong việc tiếp tục duy trì quan hệ thương mại giữa Nhật Bản với Việt Nam và thị trường Đông Nam Á
[34]. Họ chính là những thương nhân trung gian chủ yếu để kết nối thị trường Đàng Trong với Nhật Bản và đưa các sản phẩm hàng hóa của Nhật Bản, ví như gốm sứ Hizen, đến thị trường Việt Nam, khu vực và thế giới.
Điều cuối cùng cần phải chú ý là, với tầm nhìn của một chính thể mạnh, luôn giữ thế chủ động trong quan hệ đối ngoại, bên cạnh chính sách khai mở chính quyền Đàng Trong cũng luôn phải lường tính đến việc bảo vệ an toàn cho hệ thống kinh tế đối ngoại trong đó đặc biệt là thương cảng trọng yếu Hội An. Cùng với hệ thống phòng vệ, quan sát ở Cù Lao Chàm (
Chiêm bất lao, tiền cảng của Hội An), các chúa Nguyễn đã thiết lập một căn cứ hải quân mạnh ngay ở phía hữu ngạn cửa sông Thu Bồn, tức vùng “Đại Chiêm hải khẩu”
[35] để bảo vệ cho Hội An, hoạt động giao thương quốc tế cũng như cho xứ Quảng. Với tư duy đó, dinh trấn Thanh Chiêm cũng giữ vai trò trọng yếu trong việc bảo đảm an ninh vùng thượng nguồn sông Thu Bồn bên cạnh trách nhiệm chính là điều hành, xử lý các hoạt động thường xuyên của khu thương cảng.
Không chỉ dừng lại trong việc buôn bán ở các thương cảng vùng cửa sông và hải đảo ven bờ, chính quyền Đàng Trong còn thực thi một chính sách hướng biển rộng lớn. Chúa Nguyễn đã cho lập các đội hải thuyền ra các vùng đảo xa như Hoàng Sa, Trường Sa... để khai thác sản vật và từng bước khẳng định chủ quyền
[36]. Trong tác phẩm
Phủ biên tạp lục, nhà bác học Lê Quý Đôn cũng từng có những trang viết cụ thể, sinh động về nhiệm vụ và hoạt động của đội Hoàng Sa
[37]. Như vậy, từ mục tiêu kinh tế, các chúa Nguyễn ngày càng có ý thức đầy đủ và sâu sắc hơn về các nguồn lợi kinh tế và chủ quyền ở Biển Đông. Đội Hoàng Sa (
Paracels) được lập ra để thực hiện nghĩa vụ của Nhà nước. Trong suốt quá trình khai thác, xác lập chủ quyền ở quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, chính quyền Đàng Trong không có tranh chấp về quyền lợi kinh tế và chủ quyền với bất cứ quốc gia nào. Về sau, để khẳng định phạm vi ảnh hưởng, chính quyền Đàng Trong đã mở rộng địa bàn hoạt động đến vùng cù lao Côn Lôn và các đảo Hà Tiên nhưng vẫn sai cai đội Hoàng Sa kiêm quản
[38].
Lịch sử cho thấy, trong suốt thời kỳ hình thành, phát triển của thương mại Đàng Trong cũng như cảng thị quốc tế Hội An mặc dù Hội Ai (Faifo) luôn là điểm đến của nhiều thương nhân trong nước, khu vực và phương Tây nhưng ở đây đã không diễn ra một cuộc tranh chấp hay xung đột kinh tế lớn nào. Điều đó cho thấy uy lực và năng lực điều hành, tổ chức, quản lý các hoạt động kinh tế đối ngoại của chính quyền Đàng Trong cũng như dinh trấn Quảng Nam. Một chính sách khai mở, đa phương hóa quan hệ và thực thi chế độ thuế quan nghiêm cẩn… đã đem lại sức mạnh thực tế cho chúa Nguyễn. Trải qua hơn 2 thế kỷ, mặc dù phải đương đầu với những áp lực chính trị từ nhiều phía và biết bao thủ đoạn buôn lậu, trốn thuế của các thương nhân ngoại quốc nhưng chính quyền Đàng Trong đã thực thi quyền lực của mình với một ý thức mạnh mẽ và bảo vệ trọn vẹn chủ quyền dân tộc.
3. Kết luận - Trong lịch sử, do có tiềm năng và vị trí địa lý thuận lợi, miền Trung Việt Nam đã sớm thiết lập quan hệ giao thương với nhiều quốc gia Đông Á. Bằng nhiều con đường, cách thức và mức độ khác nhau, từ thời đại Champa cho đến thời kỳ Đàng Trong, các thương cảng miền Trung luôn là tâm điểm của hoạt động giao thương Đông Nam Á và là một trong những trung tâm sôi động của hệ thống hải thương châu Á thế kỷ XVI-XVIII. Các mối quan hệ, giao thương rộng mở, đa dạng đó không chỉ đã góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, mở rộng tầm kiến văn của chính quyền Đàng Trong mà còn góp phần tích cực vào sự phồn vinh của khu vực. Các hoạt động giao thương quốc tế đã để lại nhiều di sản, kinh nghiệm quý cho sự lựa chọn con đường, mô hình phát triển của Việt Nam trong những giai đoạn sau.
- Do tác động của những điều kiện mới của kinh tế thế giới, vào thế kỷ XVI-XVIII, trong “Thời đại hoàng kim” của hệ thống giao thương châu Á, ở khu vực Đông Á cũng đã xuất hiện nhiều thương cảng, nhiều hoạt động kinh tế, đẳng cấp xã hội và hiện tượng văn hóa mới. Cùng với các loại hình thành thị chính trị và quân sự truyền thống, ở Đông Á đã hình thành những loại hình (
type) hay mô hình (
model) đô thị mới. Có thể gọi đó là các Cảng thị (
City-ports). Hệ quả là, cùng với Phố Hiến ở Đàng Ngoài, Hội An hay Nước Mặn ở Đàng Trong đã thực sự trở thành những cảng thị tiêu biểu của Việt Nam. Thời bấy giờ, không ít cảng thị đã có thể đạt đến sự phát triển tương đối độc lập, thực thi cơ chế tự quản tương tự như các thành thị Tây Âu trung đại. Nhiều cảng thị đã đóng vai trò trung tâm, cửa ngõ và là huyết mạch kinh tế của đất nước.
Điều đáng chú ý là, vào các thế kỷ XVI-XVIII, với nhiều quốc gia Đông Á, kinh tế thương nghiệp trong đó có ngoại thương luôn chiếm một tỷ trọng lớn. Thậm chí, ngành kinh tế này còn giữ vai trò chủ đạo. Do vậy, trong nhận thức về bản chất và cấu trúc kinh tế - xã hội của các dân tộc phương Đông, chúng ta không thể chỉ đơn giản coi đó là các “Xã hội thuần nông” hay “Thể chế nông nghiệp” (
Agricultural polity). Điều đó cũng có nghĩa rằng, sự vận động của những mầm mống kinh tế tư bản, của nền kinh tế hàng hóa đã hình thành và thực sự đã là một thành tố quan trọng trong chính cấu trúc xã hội và kinh tế Đông Á. Những nhân tố kinh tế - xã hội đó đã tạo nên những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa cũng như thúc đẩy sự phát triển của các xã hội thương nghiệp, công nghiệp hiện đại ở Đông Á trong giai đoạn sau.
- Sau hơn hai thế kỷ khai phá và kiến dựng, các chúa Nguyễn đã lập nên ba kỳ tích ở vùng đất phương Nam: Thứ nhất, chính quyền Đàng Trong đã lựa chọn và tập trung phát triển kinh tế ngoại thương. Cùng với kinh tế nông nghiệp, thủ công nghiệp và các ngành khai thác, sự hưng thịnh của kinh tế ngoại thương đã đem lại một diện mạo mới và sức mạnh thực sự cho chính quyền Đàng Trong. Thứ hai, nhờ có sức mạnh kinh tế mà chính quyền Đàng Trong đã có thể
xây dựng và bảo vệ được chính thể,
mở rộng ảnh hưởng vào châu thổ Cửu Long. Các chúa Nguyễn chính là những người tiên phong trong công cuộc khai phá, xác lập chủ quyền vững chắc, mạnh mẽ ở vùng biên giới phía tây và các châu thổ Đồng Nai, Cửu Long; và, Thứ ba, cùng với việc mở rộng ảnh hưởng khẳng định chủ quyền ở vùng đất phương Nam, chính quyền Đàng Trong còn đồng thời
phát triển kinh tế biển, khẳng định chủ quyền trên các vùng biển đảo cận duyên cũng như các quần đảo đại dương, tiền tiêu của Tổ quốc. Các chúa Nguyễn chính là những người chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho việc thực hiện chiến lược kinh tế biển, khẳng định chủ quyền trên các vùng đảo trong đó có Hoàng Sa, Trường Sa, Côn Đảo, Phú Quốc, Thổ Chu... Chủ trương, chính sách của chính quyền Đàng Trong đã cho thấy một tầm nhìn rộng lớn, ý chí mãnh liệt và cả sự hy sinh to lớn của bao lớp người trong sự nghiệp mở rộng cương giới đất nước với một ý thức dân tộc mạnh mẽ. Chính ý thức dân tộc sâu sắc đó đã đem lại sức mạnh cho Đàng Trong đồng thời tạo nên động lực căn bản cho sự nghiệp khai phá, xác lập chủ quyền và kiên quyết bảo vệ chủ quyền của Tổ quốc Việt Nam.