Giới thiệu những bài thơ tại Quan Công Miếu Hội An

Chủ nhật - 21/05/2023 22:58
Vào năm Ất Dậu (1765) dưới thời vua Lê Cảnh Hưng, ở Đàng Trong chúa Nguyễn Võ Vương mất, quyền thần Trương Phúc Loan bỏ di chiếu phế trưởng lập ấu, đưa con thứ 16 của Võ Vương mới 12 tuổi lên ngôi chúa là Định Vương. Ngoài ra, Trương Phúc Loan còn tham lam vô độ, người người đều oán ghét vì vậy mà anh em nhà Tây Sơn nổi dậy chống cự.
      Lúc bấy giờ tình hình Đàng Trong rối loạn, vì thế ở Đàng Ngoài chúa Trịnh muốn thừa cơ vào chiếm Phú Xuân bèn phái Hoàng Ngũ Phúc cất quân tiến đánh. Nguyễn Nghiễm (thân sinh của đại thi hào Nguyễn Du) phụng chỉ làm Bình Nam Tả Tướng Quân, thừa thắng của Hoàng Ngũ Phúc chiếm lấy Phú Xuân. Đầu năm Ất Mùi - 1775, Nguyễn Nghiễm kéo quân cùng đánh nhau với Tập Đình, Lý Tài ở Cẩm Sa (nay thuộc xã Điện Nam, thị xã Điện Bàn - Quảng Nam), Tài, Đình thua chạy về Bến Ván, Nguyễn Nghiễm cho đóng quân từ Cẩm Sa đến Hội An. Trong thời gian dừng quân tại đây, Xuân Quận Công Nguyễn Nghiễm cùng các vị tùy tướng của mình là Uông Sĩ Điển (có người gọi là Uông Sĩ Dư) và Nguyễn Lệnh Tân đến thăm viếng thắng cảnh Quan Công miếu ở Hội An. Đứng trước cảnh tượng linh thiêng nghi ngút khói hương, nhớ đến vị tướng tài trung kiên thời Hán là Quan Vân Trường (Quan Công), Xuân Quận Công làm một bài thơ và một bài tán nội dung như sau:
 
Sư để Hội An phố đề Quan Phu Tử miếu
Sư để Hội An phố đề Quan Phu Tử miếu - Ảnh: Hồng Việt
 
● Âm Hán Việt:
Sư để Hội An phố đề Quan Phu tử miếu
Niết ngột Viêm đồ khảng khái thân,
Đào viên huynh đệ tức quân thần.
Trực tương trung nghĩa sư thiên cổ,
Vô luận anh hùng địch vạn nhân.
Tâm thượng Cao Quang hoàn nhất thống,
Mục trung Ngô Ngụy thất tam phân.
Chí kim vạn quốc đồng chiêm phụng,
Phỉ trực nguy nhiên hải thượng thần.
 
      Cảnh Hưng tam thập lục niên, Ất Mùi Đoan dương tiết. Tứ Tân Hợi khoa Tiến sĩ, phụng sai Tả tướng quân nhập thị Tham tụng, Hộ bộ Thượng thư, Tri Đông các kiêm Tri trung thư giám, Quốc sử Tổng tài Đại tư đồ trí sĩ, khởi phục Trung tiệp quân dinh trưởng quan. Xuân Quận Công Nguyễn Nghiễm Hy Tư Phủ thư.
 
● Tạm dịch:
Dừng chân quân phố Hội An đề miếu Quan Phu tử
Khẳng khái đem thân đỡ Hán đình,
Đào viên huynh đệ nghĩa quân thần.
Tấm gương trung nghĩa oai muôn thuở,
Đâu sá anh hùng địch vạn nhân.
Tâm hướng Cao Quang vì thống nhất,
Chẳng màng Ngô Nguỵ để phân chia.
Đến nay vạn nước đều chiêm ngưỡng,
Lẽ ấy đương nhiên vị thượng thần.
 
      Tiết Đoan Dương năm Ất Mùi tức Cảnh Hưng năm thứ 36 (1775), Tiến sĩ khoa Tân Hợi, phụng chỉ làm  Tả tướng quân, rồi thêm chức Nhập thị Tham tụng Thượng thư Hộ bộ, Tri Đông các kiêm giữ chức Tri trung thư giám, Quốc sử Tổng tài Đại tư đồ được về hưu, sau cho mời phục chức Trung tiệp quân dinh trưởng quan. Xuân Quận Công Nguyễn Nghiễm Hy Tư Phủ viết(1).
 
Quan Phu Tủ miếu tán
Quan Phu Tủ miếu tán - Ảnh: Hồng Việt

● Âm Hán Việt:
Quan Phu tử miếu tán
Thiên quyến tây cố,   
Đốc sinh thần võ.
Viêm tộ thí vi,
Phỉ cung chi cố.
Đào viên nhất tự,        
Huynh đệ quân thần.
Tả chu hữu tuyền,      
Lịch khảm lý truân.
Bắc Ngụy Đông Ngô,
Tam phân đỉnh túc.
Thất mã đơn đao,       
Đế ư Hán Thục.
Xích tinh nhất tuyến, 
Xung mạc khả hồi.
Cao Quang cựu vật,   
Thóa thủ trùng khôi.
Phỉ trực dã dũng,                    
Phỉ trực dã trí.
Trung nghĩa lưu quang          
Thiên thu ngưỡng chỉ.
Bí cung hữu tuất,                   
Di tượng hữu nghiêm.
Mặc phù ngã Việt,     
Hách hách viêm viêm.
Cảnh Hưng Ất Mùi chi hạ. Tả tướng quân Hồng Ngư cư sĩ đề.
 
● Tạm dịch:
Bài tán Quan Phu tử miếu
Hướng Tây trời chiếu lại,
Giáng sinh đấng thần võ.
Ngôi Hán gặp hồi suy,
Nghiêng mình đành chống đỡ.
Vườn đào thề một mối,
Anh em mãi vua tôi.
Tả hữu phải chở che,
Trãi bao phen gian khổ.
Bắc Ngụy Đông có Ngô,
Vạc chia chân ba ngõ.
Một ngựa một tay đao,          
Đất Thục xây Hán tộ.
Tinh thành một lòng son,
Xung mạc thu về đủ.
Cao Quang cơ nghiệp cũ,
Khôi phục với tầm tay.
Lòng ngay ấy là dũng,
Trí tài đâu dễ tày.
Trung nghĩa còn sáng rõ,     
Nghìn thu ngưỡng mộ dày.
Thanh tịnh cung thờ kín,       
Nghiêm trang tượng thánh bày.
Hộ trì cho nước Việt, 
Sáng rạng hiển hách thay.
Mùa hạ năm Ất Mùi, niên hiệu Cảnh Hưng. Tả tướng quân Hồng Ngư cư sĩ đề.
 
 
      Như trên đã nói, cùng đi với Xuân Quận Công còn có hai vị tỳ tướng là Uông Sĩ Điển và Nguyễn Lệnh Tân với chức vụ là Tùy bình Nam Nhung vụ. Sau khi Nguyễn Nghiễm viết bài thơ trên thì hai ông cũng có hai bài thơ họa lại theo nguyên vận của Xuân Quận Công như sau:
 
Phụng tùy nam nhung vụ kinh Hội An phố đề Quan Phu Tử miếu
Phụng tùy nam nhung vụ kinh Hội An phố đề Quan Phu Tử miếu - Ảnh: Hồng Việt
 
● Âm Hán Việt:
Phụng tùy Nam Nhung vu kinh Hội An phố đề Quan Phu tử miếu
Vị quốc đan tâm hứa quốc thân,
Nghĩa tai tư đệ tiết tư thần.
Anh thanh phỉ đán Thục tam kiệt,
Trung liệt đương cầu cổ nhất nhân.
Trực bả Viêm đồ vi kỷ trách,
Khẳng giao xích đỉnh hứa thùy phân.
Giác oa thế sự đô trần tích,
Chánh khí dương dương vạn cổ thần.
 
Tứ Bính Tuất khoa Tiến sĩ, Phụng Thị nhật giảng Thiêm sai Tri thị nội thư, Tả công phiên, Đông các Đại học sĩ Uông Sĩ Điển canh họa Tả tướng quân Tham tụng tôn quý đài nguyên vận.
 
● Tạm dịch:
Phụng chỉ làm tùy tướng bình Nam Nhung vụ qua phố Hội An đề miếu Quan Phu tử
Vì nước lòng son hiến cả mình,
Tiết là tôi chúa nghĩa anh em.
Thanh danh đất Thục ba  nhân kiệt
Trung liệt xưa nay một kẻ thành.
Quyết đỡ Viêm đồ là trách nhiệm,
Chẳng cho đỉnh quý phải chia ba.
Việc đời sừng ốc còn lưu dấu,
Chánh khí cao trùm rạng rỡ danh.
 
Ân ban Tiến sĩ khoa Bính Tuất, phụng chỉ lãnh chức Thị nhật giảng Thiêm sai, chuyên coi việc Thị nội, tả Công phiên, tước Đông các Đại Học Sĩ Uông Sĩ Điển, phụng hòa nguyên vận bài của tả tướng quân tôn quý đài.
 
● Âm Hán Việt:
Cương thường nhậm trọng trí kỳ thân
Thất mã đơn đao thế Hán thần.
Tam Quốc anh hùng vô đối thủ,
Nhất trường trung liệt hữu hoàn nhân
Uy lưu Hoa Hạ thùy thiên cổ,
Nghĩa tại Xuân Thu bính thập phân
Chánh khí dương dương khung nhưỡng tịnh,
Nẫm niên danh tướng ức niên thần.
 
Tứ Quý Mùi khoa Tiến sĩ, Hàn Lâm Viện Thị độc, Phu Hiên Nguyễn Lệnh Tân canh họa Tả tướng quân Tham tụng tôn quý đài nguyên vận.
Hoàng triều Cảnh Hưng tam thập lục niên Ất Mùi mạnh hạ kính đề.
 
● Tạm dịch:
Ghé vai đỡ nổi gánh cương thường
Yên ngựa, tay đao giúp Hán hoàng
Ban nước anh hùng không kẻ sánh
Một niềm trung liệt chẳng ai bằng.
Uy vang Hoa hạ ngàn năm dội,
Nghĩa sánh Xuân Thu sáng mấy vầng
Chánh khí chói ngời bao nước mộ,
Hai mươi năm tướng, bấy năm thần.
 
Ân tứ Tiến sĩ khoa Quý Mùi, chức Hàn Lâm Viện Thị Độc, Phu Hiên Nguyễn Lệnh Tân, phụng họa theo nguyên vận bài của Tả tướng quân tôn quý đài.
Đề vào đầu mùa hạ, hoàng triều Cảnh Hưng năm thứ 36 (1775).
 
      Tính đến nay, đã trải qua gần 250 năm, hiện những bài thơ này vẫn đang được trân trọng treo ngay trên gian giữa đại điện Hiệp Thiên Cung của Chùa Ông - Quan Công miếu Hội An. Bốn bài thơ của Xuân Quận Công và các tùy tướng cùng với những bức hoành phi, câu đối hiện tồn là những “trước tác” quý giá của các bậc danh nhân lưu lại với Hội An, và đây là những tác phẩm tuyệt vời mà tiền nhân để cho các thế hệ đời sau cũng như hàng ngàn du khách thập phương hàng ngày đến chiêm ngưỡng, viếng thăm.
 

Tác giả: Tống Quốc Hưng

Nguồn tin: Trung tâm Quản lý Bảo tồn Di sản Văn hóa Hội An

Tổng số điểm của bài viết là: 5 trong 1 đánh giá

Xếp hạng: 5 - 1 phiếu bầu
Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

liên kết web
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây