Từ địa phương là một hệ thống từ vựng lưu hành ở từng địa phương, vùng miền song song cùng với hệ thống từ phổ thông, từ toàn dân của cả nước. Nếu hệ thống từ toàn dân mang tính thống nhất chung của quốc gia thì hệ thống từ địa phương phản ánh tính đa dạng, riêng có về tiếng nói, từ vựng ở từng vùng miền nhất định.
Tiếng và từ địa phương do vậy là nơi lưu dấu những đặc điểm riêng về ngôn ngữ nói riêng, văn hóa nói chung. Tại Hội An từ lâu đời đã hình thành một hệ thống từ địa phương và được sử dụng cho đến ngày nay. Gần đây, dưới tác động của nhiều nguyên nhân một số từ địa phương ở Hội An đã bị thay thế một cách không cần thiết bởi những từ có nghĩa tương đương hoặc không tương đương du nhập từ nơi khác.
Điểm qua một số tư liệu về ngữ âm lịch sử để nhận biết đặc điểm tiếng Quảng Nam trong đó có Hội An. Quốc sử quán triều Nguyễn vào thế kỷ 19 trong Đại Nam nhất thống chí đã có nhận xét: “… Chí như ngữ âm bình lượng, thị chư tỉnh vi thích trung, tuy kinh sư diệc dĩ Quảng Nam âm vi chính” (Đến như tiếng nói thì bình dị, rõ ràng, so với các tỉnh thì vừa phải, tuy kinh đô cũng lấy tiếng Quảng Nam làm chính). Như vậy chúng ta thấy rằng Quốc sử quán triều Nguyễn đã xem tiếng Quảng Nam là tiếng nói có nhiều ưu điểm và được dùng làm tiếng chính ở kinh đô Huế. Dựa vào nhận xét này kết hợp với những nghiên cứu cá nhân nhà ngôn ngữ học Vương Hữu Lễ đã từng có đề xuất lấy tiếng Hội An là tiếng nói chuẩn. Lý do ông đưa ra là do Hội An từng có quá trình giao lưu - tiếp biến rộng về văn hóa trong đó có ngôn ngữ nên tiếng nói ở đây có điều kiện để hoàn thiện hơn so với các địa phương khác. Qua các tư liệu này có thể xác định tiếng và hệ thống từ vựng địa phương ở Hội An là kết quả lâu đời của quá trình giao lưu - tiếp biến văn hóa giữa nhiều thành phần cư dân trong suốt chiều dài lịch sử hình thành, phát triển của vùng đất này. Do vậy hệ thống từ địa phương chắc chắn sẽ lưu dấu nhiều vấn đề về lịch sử - văn hóa và bảo lưu nhiều giá trị về ngôn ngữ nói riêng, văn hóa nói chung cần phải được nghiên cứu, bảo tồn và phát huy tương tự như các hình thái văn hóa phi vật thể khác ở Hội An.

Phố cổ Hội An - Ảnh: Quang Ngọc
Gần đây, một nguy cơ cần phải lưu ý đó là một số từ địa phương ở Hội An đang bị/được thay thế bằng những từ có ý nghĩa tương đương hoặc không tương đương du nhập từ nơi khác đến. Các từ thay thế này được sử dụng một cách phổ biến trong cả ngôn ngữ thường ngày và trên các hình thức giới thiệu, quảng bá sản phẩm hoặc trên các phương tiện truyền thông đại chúng.
Những sự thay thế này xuất hiện ở nhiều nơi từ phố cổ cho đến làng quê nhưng không được chú ý, quan tâm. Chúng ta hãy dạo qua các con đường Trần Phú, Nguyễn Thái Học trong Khu phố cổ. Tại đây chúng ta thấy nhiều gánh hàng rong bày bán các món ăn địa phương trên vỉa hè, trong đó có món đậu hủ. Tuy nhiên trên tấm bảng ghi tên món ăn này là tào phớ hoặc tàu phớ (?). Đậu hủ là tên gọi địa phương của món ăn truyền thống phổ biến làm từ đậu nành và một số phụ gia tạo đông cùng hương vị. Đây là món ăn có nguồn gốc Trung Hoa và được viết bằng chữ vuông kiểu Hán là: 豆 腐… Ngoài Bắc đọc tên món này theo âm tiếng Hán là “tào phớ”. Người Hội An và nhiều địa phương ở miền Trung đọc chữ này theo âm tiếng Việt là “đậu hủ”. Người miền Nam đọc là “tàu hủ”. Đậu hủ là đậu nành (hoặc đậu tương) xay nát nhừ. Chữ hủ trong tiếng Hán có nghĩa là thối, nát, cũ kĩ. Rõ ràng từ “đậu hủ” nghe thuần Việt hơn và ít nhiều phản ánh được đặc điểm của món ăn này. Một số người có cách lý giải khác rằng do món ăn này được đựng trong những chiếc hũ bằng sành nên được gọi là đậu hũ nhưng người Hội An luôn viết là “đậu hủ”. Hình ảnh những gánh đậu hủ với một đầu là những chiếc giỏ đan bằng tre, mây lót bằng rơm, xơ dừa bên trong là chiếc hũ sành đựng món ăn và một đầu là chiếc kệ gỗ nhiều ngăn đựng nước đường, chén, muỗng,… được các mẹ, chị gánh đi rao bán trên các nẻo đường từ phố thị cho đến thôn xóm luôn gợi nhớ về quê hương, làng xóm trong ký ức của nhiều người con phố Hội.
Liên quan đến làng quê sông nước Cẩm Thanh, sự thay thế này có thể thấy được qua các hình thức quảng bá du lịch với những tiêu đề “Về Cẩm Thanh đi thuyền thúng”, “Trải nghiệm thuyền thúng ở rừng dừa Cẩm Thanh”, “Vũ điệu thuyền thúng”. Thật ra phương tiện này dân địa phương từ lâu đời vẫn gọi là “thúng chai”. Đây là phương tiện sông nước độc đáo của nhiều địa phương ở miền Trung và miền Nam. Gọi là thúng chai vì nó có dáng hình tròn như cái thúng đựng lương thực và được trát bằng dầu rái, chai phà lấy từ cây dầu rái, một loại cây đặc hữu của miền núi xứ Quảng. Từ thúng chai do vậy phản ánh đúng hình dáng, đặc điểm của phương tiện sông nước này. Còn thuyền thúng ở các địa phương miền Bắc có hình ô van như chiếc nôi. Một số nơi khác còn dùng từ thuyền thúng, thuyền mủng để chỉ những chiếc ghe có hai đầu nhọn đan bằng tre, chúng có sự phâh biệt rất lớn so với thúng chai của ta. Cũng rất mừng là trong đầu tháng 11 vừa qua, khi thành lập một Hợp tác xã ở Cẩm Thanh liên quan đến hoạt động bơi lắc thúng chai, những người có trách nhiệm ở đây đã sử dụng tên gọi là “Hợp tác xã dịch vụ thúng chai rừng dừa Cẩm Thanh” chứ không dùng từ thuyền thúng. Một việc làm nhỏ nhưng có ý nghĩa không hề nhỏ để bảo tồn từ địa phương.
Một trường hợp tương tự cũng đã xảy ra khi từ “đua ghe” dần dần bị thay thế bởi từ “đua thuyền”. Chúng ta thấy trên các phương tiện truyền thông của địa phương gần đây xuất hiện nhan nhản các tiêu đề “Giải đua thuyền trên sông Thu Bồn năm 2024”, “Giải đua thuyền truyền thống miền Trung”, “Giải đua thuyền đầu năm 2024 ở Hội An”… Tiêu đề một cuộc tọa đàm cũng được ghi “Tọa đàm Bảo tồn và phát huy môn đua thuyền truyền thống ở Hội An”. Đúng ra phải viết là môn, giải đua ghe truyền thống thì phù hợp hơn vì lâu nay cư dân Hội An, Quảng Nam vẫn gọi như vậy. Ở các địa phương miền Trung và miền Nam người ta không dùng từ “thuyền” mà chỉ dùng từ “ghe”.
Chúng tôi cho rằng trong xu hướng chuyển hóa tiếng nói theo từ phổ thông, từ đại chúng vẫn phải/nên giữ lại những từ địa phương vì chúng ghi dấu đậm nét bản sắc văn hóa vùng miền, phản ánh sự đa dạng trong thống nhất về văn hóa, ngôn ngữ. Chúng ta có thể sử dụng từ địa phương và ghi chú từ phổ thông ở bên cạnh.
Sự thay thế bằng từ có nghĩa không tương đương có thể nhận thấy ở trường hợp từ “tò he” thay từ “con thổi” cho một sản phẩm của làng gốm Thanh Hà. Con thổi là sản phẩm lâu đời của làng gốm Thanh Hà có hình các con vật, rỗng ruột, phía sau có lỗ để thổi phát ra tiếng kêu như tiếng còi. Đây là món đồ chơi bằng gốm dành cho trẻ con địa phương và từ sản phẩm đầu tiên nó đã được gọi là con thổi. Còn tò he xuất xứ từ miền Bắc, là sản phẩm nặn bằng bột gạo, nếp theo các hình khác nhau, tô màu và có thể ăn được. Đây cũng là một món đồ chơi của trẻ em. Tò he do vậy khác với con thổi cả về nguyên liệu, đặc điểm, tính chất sử dụng. Vậy mà không biết từ khi nào và do đâu mà từ “con thổi” ở Thanh Hà đã bị thay thế bằng từ có nghĩa không tương đương là “tò he” cho tới bây giờ.
Từ địa phương cũng như các lĩnh vực văn hóa phi vật thể khác, chúng lưu dấu những vấn đề về bản sắc văn hóa, về sự phong phú, đa dạng của tiếng Việt trên mọi miền đất nước, trong đó có Hội An. Tiếng địa phương còn là phương tiện nuôi dưỡng ý thức cội nguồn, lòng yêu quê hương, làng xóm nơi chôn nhau cắt rốn, vì vậy cần phải được gìn giữ, bảo tồn, không thể vì vô tình mà đánh mất đi.