Đây là những tư liệu chứa đựng nhiều thông tin thú vị liên quan đến đất đai, phong thổ, sinh hoạt văn hoá của vùng đất nơi những nhà du thám “
bất đắc dĩ” buộc phải đặt chân đến. Có thể kể một số tác phẩm loại này đã được công bố như Hải Nam tạp trứ của Thái Đình Lan, người đời Thanh, Trung Quốc; Dị quốc phiêu đãng ký văn; An Nam quốc giang phong tục tả sinh đồ của Nhật Bản; Trú Vĩnh Biên của Triều Tiên… Trong đó, Trú Vĩnh Biên có thể coi là một tư liệu sớm nhất đề cập đến sự có mặt của người Triều Tiên ở Hội An, Đàng Trong nói riêng, Việt Nam nói chung.
Cù Lao Chàm
Trú Vĩnh Biên là một cuốn sử của triều đình phong kiến Triều Tiên trong đó ghi lại câu chuyện vào tháng 10 năm Đinh Mão (
1687), một số người dân đảo Tế Châu, Triều Tiên trên đường làm nhiệm vụ bằng thuyền đã bị gió bão đánh phiêu dạt đến một địa phương xa lạ mà sau nầy xác định mới biết đó là Hội An nước Đại Việt. Nơi thuyền những người Tế Châu tấp vào chính là Cù Lao Chàm. Họ được những cư dân xứ đảo này cứu giúp, cho nước uống, lương thực và đưa vào trình diện quan sở tại ở Hội An. Tư liệu cho biết:
“… Lúc đó, gió lớn lại nổi lên, phải khó khăn lắm những người dân địa phương mới đưa họ lên được bờ. Tất cả được dẫn vào làng thuộc phủ Minh Đức, quận Hội An, được đưa đến trước viên quan mặc áo đen, đội mũ làm bằng đuôi lông ngựa. Người nầy ngồi trên ghế và viết hỏi đáp. Viên quan nói, đại ý: “Thái tử nước chúng tôi trước đây bị người Triều Tiên giết nên giờ đây phải giết các người để báo thù”. Những người Tế Châu khi đọc được những dòng chữ đó đều khóc rống lên. Bỗng nhiên một phụ nữ mặc đồ lụa, đeo đầy trang sức xuất hiện. Đó là người đàn bà đài các, từ bà toả ra hương thơm kỳ lạ. Cầm lấy bút bà viết: “
Các người đừng khóc, nước ta vốn không sát hại người, các ngươi có thể ở lại, nếu không thì cứ đi”. Sau cuộc tiếp xúc đó những người Tế Châu được đưa trở lại hòn đảo mà họ đã đến lúc đầu là Cù Lao Chàm ngày nay”.
Tư liệu này cũng cho biết, đoàn người bị nạn gồm 24 người, sau đó ba người bị chết do uống nước lạnh khi mới được cứu. Những người còn lại được người dân địa phương cũng như chính quyền giúp đỡ tiền, gạo, được đi lại tự do các nơi, do vậy có điều kiện chứng kiến tận mắt cảnh vật nơi đây và đã ghi chép lại trong Trú Vĩnh biên. Sau gần 10 tháng ở lại Hội An, vào tháng 7 năm 1688 nhờ sự giúp đỡ của một thương nhân Trung Quốc có tên là Châu Hán Nguyên và chủ thuyền Trần Hữu Ly cùng với sự bảo hộ của triều đình chúa Nguyễn mà cụ thể là ban cho họ 600 lạng bạc và cử Minh Đức hầu làm thư gửi chính quyền phong kiến Triều Tiên thông báo sự việc xảy ra, những người Triều Tiên bị nạn đã được lên thuyền để về nước và mất gần nữa năm lênh đênh trên biển họ mới đặt chân lên được mảnh đất quê nhà.
Cù Lao Chàm
Sự kiện những người Triều Tiên phiêu dạt đến Hội An và những diễn biến xung quanh sự kiện này, ngoài những giá trị về mặt lịch sử nó còn góp phần khắc họa rõ nét tính cách thuần hậu, nhân ái của cư dân Hội An trong việc sẵn sàng cứu giúp những người phương xa sa cơ lỡ bước. Đồng thời, sự kiện này có thể xem là một mốc son trong quan hệ hữu nghị giữa hai dân tộc Việt - Triều. Không phải gần đây khi quan hệ ngoại giao Việt - Triều, Việt - Hàn được thiết lập thì mối quan hệ hữu nghị, sự giao hảo giữa hai dân tộc mới có dịp thắt chặt mà từ rất sớm mối quan hệ giao hảo nầy đã được vun đắp bằng những cuộc gặp gỡ, trao đổi thơ văn giữa các sứ đoàn Việt Nam - Triều Tiên tại triều đình Trung Quốc, bằng sự di cư của Lý Long Tường và sự phát triển của hậu duệ nhà Lý ở Triều Tiên, bằng sự có mặt của những người Triều Tiên ở Hội An và việc họ được giúp đỡ để về nước an toàn… Quan hệ giao lưu kinh tế, văn hoá Việt Nam - Triều Tiên cũng đã diễn ra khá sớm ở Hội An qua việc tìm thấy khá nhiều tiền đồng Triều Tiên bên cạnh các loại tiền đồng Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản, ở sự chiếm lĩnh thị trường Hội An của sâm Cao Ly từ rất lâu đời: “
May mô tí nữa thì lầm, khoai lang khô xắt lát mà tưởng sâm Cao Ly bên Tàu”. Quan hệ giao lưu văn hoá này cũng đã diễn ra khá sôi nổi với sự có mặt của các quân nhân Hàn Quốc, Triều Tiên ở Việt Nam nói chung, Hội An nói riêng trước đây, kèm theo đó là sự phổ biến của các món ăn kim chi, môn võ Taekwondo, các hình thức múa dù, múa quạt kiểu Hàn Quốc. Và cũng không loại trừ có thể có những cuộc hôn nhân Hàn/Triều - Việt và những đứa con đã ra đời từ các cuộc hôn nhân này…
Hội An là tụ điểm giao lưu văn hoá, là nơi gặp gỡ giữa các nền văn hoá trong một thương cảng cổ. Đây chính là một trong những giá trị nổi bật toàn cầu của Di sản Văn hoá Hội An. Trong các mối quan hệ giao lưu đó có mối quan hệ giao lưu Triều Tiên/Hàn Quốc - Việt Nam mà lâu nay chưa được chú ý nghiên cứu, tìm hiểu. Trú Vĩnh biên là một tư liệu nhắc nhở chúng ta về vấn đề này.
Chú ý: Việc đăng lại bài viết trên ở website hoặc các phương tiện truyền thông khác mà không ghi rõ nguồn http://hoianheritage.net là vi phạm bản quyền