Vài nét về làng Thanh Hà ở Hội An qua một số tư liệu

Thứ ba - 17/04/2018 03:49
Thanh Hà là một trong những làng/xã hình thành sớm ở Hội An, vào khoảng thế kỷ XVI-XVII. Theo địa bạ làng Thanh Hà được lập vào thời vua Gia Long năm thứ 11 (1812), xã Thanh Hà thuộc tổng Phú Triêm hạ, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Về địa giới, xã Thanh Hà có phía Đông giáp xã phụ lũy Cẩm Phố, xã An Tân, xã An Mỹ, phường Xuân Mỹ (tổng An Nhơn Trung), châu Kim Bồng (thuộc Hoa Châu, huyện Duy Xuyên), xã Hòa An, lập cọc gỗ làm giới; Phía Tây giáp xã Phú Chiêm (tổng An Nhơn Trung), xã Lai Nghi, xã An Lưu; Phía Nam giáp xã An Mỹ, xã Tân An và sông; Phía Bắc giáp xã Tân An, xã Hòa An, lập cọc gỗ làm giới. Toàn diện tích của xã là 2295 mẫu, 9 sào, 14 thước, 9 tấc. Trong đó, công điền là 190 mẫu 2 sào 1 thước 5 tấc, tư điền là 290 mẫu 8 sào 11 thước 3 tấc, công thổ là 4 mẫu 3 sào, tư thổ là 5 mẫu 5 sào 1 tấc, công điền cho nơi khác là 1 sào, tư điền của người nơi khác là 1 mẫu 6 sào, Thần từ Phật tự là 5 mẫu, mộ địa là 372 mẫu 2 sào14 thước, thổ phụ là 260 mẫu 1 sào 8 thước, hoang nhàn là 1165 mẫu 9 sào 10 thước.
          Vào cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX với việc dân cư tăng nhanh và diện tích được mở rộng, một số làng/xã ở Hội An có quy mô dân số, diện tích đất phát triển đã tách ra thành các làng nhỏ hoặc dưới làng hình thành các thôn, sau đổi thành ấp. Làng Thanh Hà lúc này được chia thành 13 ấp gồm Hậu Xá, Thanh Chiếm, An Bang, Bộc Thuỷ, Nam Diêu, Cửa Suối, Bầu Ốc, Trảng Kèo, Trảng Sỏi, Đồng Nà, Trà Quế, Cồn Động, Bến Trễ[1]. Hiện nay, làng/xã Thanh Hà là địa bàn chính của phường Thanh Hà, xã Cẩm Hà và một phần nhỏ diện tích phường Tân An và xã Cẩm An.

           Về lịch sử ra đời của làng Thanh Hà hiện chưa có tư liệu xác định niên đại cụ thể quá trình thành lập làng. Tuy nhiên, qua tiếp cận một số văn bản Hán Nôm (gia phả, khế ước...) hiện đang được lưu trữ tại Trung tâm Quản lý Bảo tồn Di sản Văn hóa Hội An, bước đầu có thể xác định được niên đại xuất hiện tên gọi Thanh Hà. Trong Gia phả tộc Trần (nhà số 21 Lê Lợi), tên gọi Thanh Hà được nhắc đến vào năm Cảnh Hưng thứ 43 (1782). Tại nhà số 143 Trần Phú, trong văn khế bán đất của ông Từ Cứ và em ruột Từ Thị Hòa ở xã Minh Hương, tên gọi Thanh Hà được nhắc đến năm Thái Đức thứ 5 (1782). Tại nhà số 132 Trần Phú, trong Bản thẩm án của bà Thừa họ Lý, tên gọi Thanh Hà được nhắc đến vào năm Cảnh Thịnh thứ 2 (1794)... Đây là một trong những thông tin quý giá để xác định quá trình thành lập làng/xã Thanh Hà.

          Dười thời nhà Nguyễn, trong tác phẩm Hoàng Việt nhất thống dư địa chí của Lê Quang Định được biên soạn dưới thời vua Gia Long, làng Thanh Hà được tác giả nhắc đến như sau:

         “… 1.135 tầm, phía nam dọc theo sông, phía bắc có dân cư rất trù mật, đến bến đò sông Thanh Hà, sông rộng 69 tầm, nước sâu 2 tầm, trong và ngọt, từ đây đi ngược lên thì đến ruộng đồng xã Cổ Lưu là hết, xuôi xuống dưới thì hợp lưu với sông lớn. 742 tầm, bên nam chạy dọc theo phù sa của sông, bên bắc là dân cư xã Thanh Hà, dân ở đây chuyên làm nghề đúc gạch ngói, làm lò gốm và nấu vôi trắng, đến nền cũ miếu Bát Vị, ở địa phận xã Thanh Hà”.

          Trong tác phẩm Đại Nam nhất thống chí được biên soạn dưới thời vua Tự Đức, tên gọi Thanh Hà được nhắc đến trong phần mục thổ sản “đồ gốm sản ở Thanh Hà, huyện Diên Phước, có hộ chuyên nghiệp”. Đến thời vua Đồng Khánh, trong tác phẩm Đồng Khánh dư địa chí ghi “xã Thanh Hà thuộc tổng Phú Triêm hạ, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam”.

           Đến những năm 40 của thế kỷ XX, trong tác phẩm Quảng Nam xã chí của Viện Viễn đông bác cổ khi điều tra, khảo sát về các làng/xã Hội An đã có nhiều ghi chép về làng Thanh Hà. Tài liệu cho biết, làng Thanh Hà có 8 tộc tiền hiền gọi là bát tôn gồm Nguyễn Văn, Nguyễn Viết, Nguyễn Đức, Nguyễn Kim, Ngụy Như, Bùi Phước, Võ Đình, Võ Văn. Cư dân làng Thanh Hà làm nhiều nghề như ngói, gạch, làm đồ gốm... Làng cũng có nghề đánh cá, trong đó cư dân ấp Cồn Động chuyên nghề làm cá, nghề nông thì chiếm một nửa của làng. Về sắc phong, bấy giờ trong làng đang giữ 27 đạo sắc phong có niên hiệu từ đời vua Minh Mạng đến Khải Định. Làng Thanh Hà có nhiều người đỗ đạt cao và làm quan như Thượng thư bộ binh Nguyễn Văn Điển, Hồng Lô tự khanh Nguyễn Duy Hiệu, Hàn lâm viện tu soạn Nguyễn Viết Tường. Có những thợ gạch ngói giỏi được triều đình nhà Nguyễn trưng tập vào các đội lính thợ xây dựng các công trình của vua quan nhà Nguyễn ở Huế, các công trình công cộng ở Quảng Nam và các tỉnh thành khác. Ngoài ra, trong tài liệu cũng đã cung cấp nhiều thông tin về các di tích như chùa Phước Lâm, chùa Vạn Đức, chùa Long Tuyền, đình Thanh Hà... và các ngày lễ cúng liên quan đến đình Thanh Hà, Tiền hiền, Ngọc Lân. Tất cả những thông tin trên góp phần để nhận diện, nghiên cứu lịch sử văn hóa làng Thanh Hà.

           Những tư liệu nêu trên là rất quý để nghiên cứu về lịch sử - văn hóa làng Thanh Hà nói riêng, Hội An nói chung. Hy vọng rằng, trong thời gian tới khi triển khai thực hiện chương trình Điều tra, nghiên cứu đề xuất hướng bảo tồn và phát huy di sản văn hóa làng Thanh Hà, chúng ta sẽ có thêm nhiều tư liệu quý để hiểu sâu hơn về làng Thanh Hà.
 

[1] Nguyễn Chí Trung (2017), “Làng xã ở Hội An qua các tư liệu thư tịch, bia ký, khảo cổ”, Chuyên đề thuộc đề tài Nghiên cứu, biên soạn địa chí Hội An.
 
 

Tác giả: Phạm Phước Tịnh

Nguồn tin: Trung tâm Quản lý Bảo tồn Di sản Văn hóa Hội An

Chú ý: Việc đăng lại bài viết trên ở website hoặc các phương tiện truyền thông khác mà không ghi rõ nguồn http://hoianheritage.net là vi phạm bản quyền

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

liên kết web
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây