Trong lịch sử hình thành, với đặc điểm là một nghề thương mại, gắn bó với tính may rủi, lãi lỗ nên người buôn bán Hội An luôn tìm đến các hoạt động cầu may, cầu lộc, phát tài. Nghề này không xác định được Tổ nghề cụ thể, các hoạt động tín ngưỡng được thể hiện trong các sinh hoạt tín ngưỡng gia đình, cộng đồng gắn với từng loại hình kinh doanh hoặc gắn với yếu tố văn hóa dân tộc… Tựu trung lại bao gồm một số lễ tục đáng chú ý sau:
Trong bản khai folklore về làng xã ở Quảng Nam do Viễn Đông Bác cổ triển khai thực hiện vào năm 1941 - 1943, có nhiều làng xã ở Hội An, điển hình như làng Cẩm Phô, Minh Hương, Sơn Phong, Để Võng, An Mỹ… Dưới đây xin được giới thiệu một số thông tin liên quan đến làng Để Võng thuộc phường Cẩm Châu hiện nay. Đây là tập tài liệu viết bằng tay đã cung cấp nhiều thông tin quý giá về làng Để Võng xưa như diện tích, dân số, nghề nghiệp, thần tích, sắc phong, tục tang ma cưới hỏi, đình làng… liên quan đến làng.
Nói về đình làng Việt Nam, cho đến nay vẫn còn nhiều giả thuyết khác nhau về thời điểm xuất hiện và nguồn gốc. Song, dù quan điểm như thế nào các nhà nghiên cứu cũng đều cơ bản thống nhất rằng, đình làng là một thiết chế văn hóa - tín ngưỡng tổng hợp, có ba chức năng gồm: Chức năng tín ngưỡng, chức năng hành chính và chức năng văn hóa. Ở Hội An, do được hình thành trong bối cảnh diễn tiến lịch sử, cơ tầng kinh tế - xã hội và văn hóa mang yếu tố khác biệt nên qua nghiên cứu, khảo sát thực tế những ngôi đình làng/ấp ở Hội An hiện nay có thể thấy:
Không quân hàm, không quân hiệu, không quân phục, chỉ bằng ý chí cách mạng, lòng yêu nước, những chiến sĩ Đội Biệt động Hội An năm xưa đã chiến đấu, hy sinh tuổi thanh xuân của mình để rồi hôm nay nhìn lại năm tháng đã qua lòng vẫn ngập tràn tự hào, không hề hối tiếc.
1. Hợp tác tại Hội An (1990-2002)
Hợp tác kỹ thuật giữa Hội An và Cơ quan Văn hóa Nhật Bản chính thức bắt đầu khi Tổng Giám đốc cơ quan văn hóa Nhật Bản nhận được thư yêu cầu hỗ trợ từ Ủy ban Bảo tồn Di tích quốc gia Hội An vào tháng 11 năm 1990.
Mặc dù chưa xác định chính xác niên đại xây dựng nhưng hiện nay chùa Cầu đã trở thành biểu tượng kiến trúc của di sản văn hóa Hội An, là chứng tích về một thời kỳ phát triển thịnh đạt của đô thị thương cảng Hội An cũng như về mối quan hệ, giao lưu văn hóa giữa Việt Nam, Nhật Bản, Trung Hoa và các nước phương Tây tại Hội An trong nhiều thế kỷ trước đây...
Kể cũng lạ khi mà Cù Lao Chàm trở thành là vương quốc của cây ngô đồng. Lạ vì xưa nay trong suy nghĩ của nhiều người, ngô đồng là một loại cây vương giả, chốn cung đình, dinh thự sang trọng còn không muốn bắt rễ, có đâu đến một vùng đảo đầy nắng gió như Cù Lao Chàm, Hội An. Vậy mà thật bất ngờ khi phát hiện ở đây bạt ngàn một rừng ngô đồng, cứ đến tháng 6, tháng 7 âm lịch hàng năm lại ra hoa đỏ rực cả một góc trời đảo xanh, tạo thành một cảnh tượng vô cùng ngoại mục…
TT - Hiện một số nhà nghiên cứu cũng như các bậc nhân sĩ, thức giả đã đặt vấn đề về nơi khai sinh ra loại chữ viết này.
TT - Đây là vấn đề được đặt ra từ vài chục năm nay bởi một số nhà nghiên cứu cùng những người quan tâm đến lịch sử buổi đầu chữ quốc ngữ. Những ai đã tiên khởi mở ra việc tạo lập chữ quốc ngữ?
Di tích lịch sử cách mạng Vườn bà Thủ Khóa nằm tại thôn Trung Châu, xã Cẩm Kim, thành phố Hội An. Di tích đã được ghi vào danh mục bảo vệ của thành phố từ năm 2000. Trong số các di tích ở Cẩm Kim đã được khảo sát, đánh dấu và ghi nhận, di tích này là một trong hai di tích của địa phương ghi dấu đậm nét những sự kiện thuộc giai đoạn cách mạng Tiền khởi nghĩa. Những sự kiện lịch sử đã diễn ra tại đây có ý nghĩa quan trọng, góp phần to lớn vào phong trào đấu tranh cách mạng ở Hội An nói riêng, của tỉnh Quảng Nam nói chung.
TT - Người Việt Nam sử dụng được chữ quốc ngữ sớm nhất ở thời điểm nào? Thật không dễ có đáp án chính xác cho câu hỏi có vẻ đơn giản này nếu không có những bản văn viết tay của hai người Việt được lưu lại đến ngày nay.
TT - Làm nên chữ quốc ngữ từ mẫu tự Latin là một kỳ công khi tiếng Việt từ lâu được ký âm bằng chữ Hán và tiếp theo là chữ Hán Nôm.
Mặc dù chưa xác định chính xác niên đại xây dựng nhưng hiện nay chùa Cầu đã trở thành biểu tượng kiến trúc của di sản văn hóa Hội An, là chứng tích về một thời kỳ phát triển thịnh đạt của đô thị thương cảng Hội An cũng như về mối quan hệ, giao lưu văn hóa giữa Việt Nam, Nhật Bản, Trung Hoa và các nước phương Tây tại Hội An trong nhiều thế kỷ trước đây...
Mặc dù chưa xác định chính xác niên đại khởi dựng nhưng hiện nay Chùa Cầu đã trở thành biểu tượng kiến trúc của di sản văn hóa Hội An, là chứng tích về một thời kỳ phát triển phồn thịnh của đô thị thương cảng Hội An cũng như về mối quan hệ, giao lưu văn hóa giữa Việt Nam, Nhật Bản, Trung Hoa và các nước phương Tây tại Hội An trong nhiều thế kỷ trước đây...
Chùa Cầu, tên gọi khác là cầu Nhật Bản, Lai Viễn Kiều là một trong những công trình kiến trúc độc đáo ở Việt Nam. Tương truyền, chùa Cầu do người Nhật ở Hội An khởi dựng vào đầu thế kỷ XVI và được các thế hệ cộng đồng cư dân Hội An tôn tạo, phát triển và bảo tồn cho đến ngày nay. Hiện nay, chùa Cầu đã trở thành biểu trưng của thành phố Hội An, là hình ảnh phản ánh mối quan hệ hữu nghị, giao lưu quốc tế tại Hội An trong quá khứ. Trong bài viết này xin được giới thiệu một số thông tin, sự kiện liên quan đến di tích đặc biệt này.
Hội An, một trong những đô thị cổ xưa nhất của Việt Nam, có một bề dày lịch sử khoảng năm trăm năm, xứng đáng được nghiên cứu thật sâu sắc về bản chất, lịch sử, khảo cổ học, văn hóa dân gian, các giá trị văn hóa và nghệ thuật, các hoạt động kinh tế và xã hội của nó.
Vào giữa thế kỷ XVII, sau khi người Mãn Thanh lên nắm quyền ở Trung Quốc, nhiều trung thần của nhà Minh không chịu thuần phục nhà Thanh bỏ trốn sang Nhật Bản, Việt Nam cùng các nước Đông Nam Á khác nhằm mưu tìm cơ hội khôi phục nhà Minh. Trong số những Minh thần này, có một trưng sĩ[1] tên là Chu Thuấn Thủy rất đáng được chú ý.
“Hội An trăm vật trăm ngon
Từ từ lỗ miệng, để chồng con được nhờ”