Chùa Cầu còn có tên gọi khác là cầu Nhật Bản, tên chữ tại di tích là Lai Viễn Kiều
(cầu Lai Viễn, tức là cầu của những người bạn từ phương xa đến). Sách Đại Nam Nhất thống chí thời Nguyễn chép rằng:
“Cầu Lai Viễn: Ở xã Cẩm Phố (Phô) về phía tây phố Hội An huyện Diên Phước, nước khe chảy về phía nam đổ vào sông cái, cầu bắc ở trên. Tương truyền cầu này do người khách buôn Nhật Bản bắc, dưới cầu xây đá, trên lát ván, gác mái gồm bảy gian lợp ngói, hai bên cầu bày hàng mua bán, nên gọi là cầu ngói. Năm Kỷ Hợi, Hiển Tông Hiếu Minh hoàng đế (tức chúa Nguyễn Phúc Chu) đi tuần du phương nam, xa giá đến phố Hội An, thấy phía tây phố có cầu, thuyền buôn tụ họp, bèn cho tên là Lai Viễn Kiều (cầu Lai Viễn) và viết chữ khắc biển vàng ban cho, nay vẫn còn”[1] Bức biển khắc tên Lai Viễn Kiều do chúa Nguyễn Phúc Chu ban vào năm Kỷ Hợi - năm 1719 hiện được treo trang trọng trên lối vào nội thất gian thờ của chùa Cầu. Xung quanh bức biển trang trí hình 6 con rồng, lạc khoản ghi: Quốc Chúa Thiên Túng Đạo Nhân đề.
Trong thời kỳ phát triển thịnh vượng, cảng thị Hội An là nơi thương nhân của nhiều nước đến buôn bán sầm uất, trong đó đông nhất là người Nhật và người Hoa. Với chính sách ưu đãi của các chúa Nguyễn, người Nhật và người Hoa ở Hội An được lập khu phố riêng bên cạnh khu phố của người Việt. Để thuận lợi trong việc giao thương, buôn bán, đi lại giữa các khu phố qua một lạch nước - Khe Ồ Ồ, nên đã xây dựng cầu ở đây vào khoảng cuối thế kỷ XVI, đầu thế kỷ XVII. Tương truyền, cầu do người Nhật xây dựng ngoài chức năng phục vụ giao thông qua mương nước, còn mang hàm ý sâu xa là trấn yểm loài thủy quái - con Cù có đầu ở Ấn Độ, đuôi ở Nhật Bản, lưng ở Hội An, thường gây tai họa như động đất, lũ lụt. Về sau, để yên tâm hơn, người Việt và người Hoa ở Hội An xây dựng thêm ngôi miếu thờ vị thần có chức năng trị thủy là Bắc Đế Trấn Vũ. Vì vậy mà ngày nay chùa Cầu trở thành biểu tượng độc đáo về sự giao lưu văn hóa Việt Nam - Nhật Bản - Trung Hoa. Có thể nói, đối với người Hội An, chùa Cầu là một công trình kiến trúc đặc biệt, vừa mang công năng là chiếc cầu phục vụ dân sinh đi lại, cũng vừa là địa điểm tín ngưỡng với quan niệm chống thiên tai lũ lụt, bảo vệ sự an toàn cho khu phố, cho cộng đồng.
Trong Thiên Nam Tứ chí lộ đồ thư do Đỗ Bá Công Đạo vẽ và chú thích vào năm Bính Dần - 1686, lần đầu tiên hình vẽ di tích chùa Cầu được thể hiện trên bản đồ với dòng chữ chú thích là Hội An kiều. Trước đó vài năm, tên di tích chùa Cầu đã được nhắc đến trong một câu chuyện diễn ra trong thời gian khoảng từ năm 1673-1683, được giáo sĩ Bénigne Vachet ghi lại mà L. CADIÈRE giới thiệu trong tập Những người bạn cố đô Huế (BAVH), tập 7, xuất bản năm 1920 với tiêu đề: Trên cầu Faifo thế kỷ XVII - Câu chuyện bi hài. Năm 1695, chùa Cầu được thiền sư Thích Đại Sán chép trong tác phẩm Hải ngoại kỷ sự là cầu Nhật Bản: “
Hội An là một mã đầu lớn, nơi tập hợp của thương khách các nước; thẳng bờ sông, một con đường dài ba bốn dặm, gọi là Đại Đường Cái, hai bên đường hàng phố liền nhau khít rịt, chủ phố thảy đều người Phước Kiến, vẫn ăn mặc theo lối tiền triều (nhà Minh). Phần đông phụ nữ coi việc mua bán. Những khách trú ở đây hay cưới vợ bản xứ cho tiện việc thương mại. Cuối đường là cầu Nhật Bản, tức Cẩm Phố;”
[2] Chùa Cầu dài 20,4m, rộng 13m, cao 5,7m, bố cục mặt bằng kiểu chữ đinh gồm phía nam là cây cầu có mái che nối liền trục giao thông chủ đạo của khu phố cổ, liền kề phía bắc là ngôi miếu thờ Bắc Đế Trấn Vũ
(Huyền Thiên Đại Đế) - vị thần có chức năng trị thủy. Cầu và miếu có kết cấu khung gỗ, mái lợp ngói âm dương, sàn lát ván dày, được đặt trên những trụ đá vững chãi bắc qua mương nước chảy từ khe Ồ Ồ phía bắc ra sông chính ở phía nam. Hệ mái chùa Cầu cong mềm mại, được trang trí nhiều đề tài, chi tiết giàu giá trị mỹ thuật như đề tài lưỡng long tranh châu, giao lá, các đĩa sứ men trắng vẽ lam, khuông hoa văn đất nung... Hệ vì kèo kiểu trính chồng trụ đội có kết hợp độc đáo với kiểu đấu củng. Nội thất chùa Cầu thoáng rộng, được trang hoàng tôn nghiêm bởi những cặp liễn đối, bức hoành phi, bức chạm trổ trên vách và đặc biệt là cặp mắt cửa huyền bí đặt bên trên lối vào ngôi miếu. Trang trọng giữa nội thất ngôi miếu thờ là bàn thờ Bắc Đế Trấn Vũ đứng trên lưng con rùa, tay ấn trên thanh kiếm.... Ngoài ra, ở hai bên lối vào phía đông và phía tây chùa Cầu còn thờ cặp tượng chó
(linh cẩu) và khỉ
(thần hầu).
Với những giá trị tiêu biểu về mặt kiến trúc nghệ thuật và văn hóa, ngay từ những thập niên đầu thế kỷ XX, chùa Cầu đã được Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp ở Đông Dương liệt hạng cấp quốc gia cùng với 2 di tích khác ở Hội An là chùa Bà Mụ - Ông Chú
(Pagoda de la Maternitéouou Temple) và Hội quán Triều Châu
[3]. Chùa Bà Mụ và Ông Chú tức là 2 cung Cẩm Hà và cung Hải Bình, công trình kiến trúc tín ngưỡng này hiện nay chỉ còn lại cổng vào có quy mô lớn mà dân gian quen gọi là Tam quan chùa Bà Mụ. Hình ảnh chùa Cầu cũng được in trên bưu thiếp thời Pháp thuộc, trong đó có bưu thiếp in hình mặt tiền chùa Cầu, có bưu thiếp in hình mặt phía đông chùa Cầu. Tiếp đến, vào thập niên 60 thế kỷ XX, hình ảnh chùa Cầu lại được in trên tem lệ phí vi bằng của tỉnh Quảng Nam. Ngày 17/2/1990, cùng với Khu phố cổ Hội An, Hội quán Phước Kiến và nhà cổ Tấn Ký, di tích chùa Cầu đã được Bộ Văn hóa
(nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) cấp bằng xếp hạng cấp quốc gia. Đây là những di tích cấp quốc gia được cấp bằng xếp hạng đầu tiên ở Hội An. Vào ngày 17/5/2006, Ngân hàng nhà nước Việt Nam đã phát hành tiền polyme mệnh giá 20.000đ màu xanh lơ đậm, kích cỡ 136 x 65mm, trang trí hình phong cảnh chùa Cầu của khu di sản văn hóa thế giới Khu phố cổ Hội An. Ngày nay, chùa Cầu trở thành biểu trưng của thành phố Hội An, cũng là một trong những điểm tham quan hấp dẫn nhất thu hút đông đảo du khách đến tham quan.
Bên cạnh việc được nghiên cứu nhận diện và tôn vinh những giá trị, di tích chùa Cầu đã được cộng đồng cư dân Hội An gìn giữ, bảo tồn nguyên vẹn cho đến nay. Những tư liệu hiện còn cho biết, đến nay chùa Cầu đã được cộng đồng cư dân Hội An tu bổ lớn ít nhất 7 lần vào các năm 1763, 1817, 1875, 1917, 1962, 1986, 1996.
Tu bổ Chùa Cầu năm 1986
Theo xà cò, năm Quý Mùi - 1763, chùa Cầu được người đứng đầu xã Minh Hương là Trương Hoằng Cơ cùng toàn xã tu bổ. Nội dung văn khác xà cò ghi: Long Phi tuế thứ Quý Mùi niên Bính Thìn nguyệt, Ất Dậu nhật, Kỷ Mão thời, Minh Hương xã Duyên thủ Trương Hoằng Cơ ký toàn xã đẳng trùng hưng.
54 năm sau, tức vào năm Đinh Sửu - 1817, chùa Cầu được xã Minh Hương tiếp tục tu bổ. Văn khắc xà cò về lần tu bổ này ghi: Gia Long thập lục niên tuế thứ Đinh Sửu Ất Tỵ nguyệt Mậu Tý nhật Bính Thìn thời Minh Hương xã hương quan hương lão hương trưởng toàn xã đẳng đồng trùng tu. Ngoài xà cò còn lập bia đá đặt ở đầu phía đông chùa Cầu. Bia đề bài ký trùng tu Lai Viễn Kiều (Trùng tu Lai Viễn Kiều ký) do đốc học Quảng Nam Đinh Tường soạn.
Rồi sau 58 năm tiếp, tức vào năm Ất Hợi - 1875, chùa Cầu tiếp tục được xã Minh Hương và những thương buôn tại Hội An tu bổ. Văn khắc xà cò lần này ghi: Tự Đức nhị thập bát niên tuế thứ Ất Hợi Giáp Thân nguyệt Bính Thìn nhật Bính Thân bài Minh Hương xã hương quan hương trưởng bổn xã tịnh bổn phố quý thương đẳng đồng trùng tu.
Dưới thời Pháp thuộc, chùa Cầu cũng được chính quyền và cộng đồng cư dân tu bổ. Lần tu bổ này được khắc ghi trong 3 bia đá và xà cò hiện còn tại di tích. Trong đó có bia đá ghi lại việc năm Ất Mão - 1915, chánh công sứ LESTERLIN GALTIER đã chuẩn xuất ngân để tu bổ di tích chùa Cầu. 02 bia đá còn lại ghi phương danh cúng tiền tu bổ. Xà cò ghi lại lần tu bổ này như sau: Khải Định nhị niên tuế thứ Đinh Tỵ lục nguyệt cát nhật Minh Hương xã quan viên hương chức, ngũ bang bang trưởng tịnh thành phố chư quý thương đồng trùng tu. Như vậy, di tích chùa Cầu được tu bổ lần này cách lần tu bổ kế trước khoảng 60 năm.
Khoảng năm 1962, chùa Cầu được chính quyền tỉnh Quảng Nam tu bổ, thay thế và gia cố những cấu kiện bị mục nát. Bộ Quốc gia giáo dục có bảng treo ở chùa Cầu đề:
“Cổ tích liệt hạng: Lai Viễn kiều. Cấm phá hoại di sản, dán giấy, vẽ và viết trên cổ tích, ai phạm pháp sẽ bị truy tố và trừng phạt theo luật lệ hiện hành về bảo tồn cổ tích viện khảo cổ”[4] Từ sau năm 1975 đến nay, chùa Cầu được tu bổ lớn 2 lần vào năm 1986 và 1996. Lần tu bổ vào năm 1986 được tiến hành từ tháng 8 đến tháng 10, do Bộ Văn hóa
(nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) phối hợp với UBND thị xã Hội An
(nay là UBND thành phố Hội An) thực hiện. Hạng mục tu bổ gồm trùng tu phần mái, phục hồi sàn cầu như hiện nay. Kinh phí tu bổ là 555.454 đồng. Trong 2 tháng tiến hành tu bổ di tích chùa Cầu, có 79 đoàn khách đến tham quan, trong đó có 39 đoàn khách nước ngoài. Đại sứ Ba Lan và các nhân viên sứ quan cũng đến tham quan trong thời gian này. Năm Bính Tý - 1996, chùa Cầu tiếp tục được UBND thị xã Hội An
(nay là UBND thành phố Hội An) tiến hành tu bổ. Hạng mục tu bổ gồm xây lại ½ trụ phía tây, đúc dầm tường phía Bắc. Tổng kinh phí tu bổ là 18.236.032đ.
Từ năm 2006-2008, hạng mục xử lý nước thải, kè bảo vệ và tôn tạo cảnh quan khu vực xung quanh di tích chùa Cầu cũng được thực hiện do Trung tâm Bảo tồn Di sản Di tích Quảng Nam (nay là Trung tâm Quản lý Di tích và Danh thắng Quảng Nam) làm chủ đầu tư.
Có thể nói, trong thời gian qua, với sự quan tâm của các cấp chính quyền, sự hỗ trợ giúp đỡ của các nhà khoa học, sự đồng thuận của người dân, công tác bảo tồn, phát huy di tích chùa Cầu đạt được nhiều kết quả và thành công nhất định, được các bạn bè, chuyên gia trong nước và quốc tế đánh giá cao. Mặc dù vậy, hiện nay trong công tác này vẫn còn đó nhiều vấn đề trăn trở, suy tư, nhất là việc gìn giữ nguyên vẹn lâu dài những giá trị của chùa Cầu trong điều kiện di tích đang bị xuống cấp nặng do thời gian và những tác động của thiên nhiên và con người. Để việc trùng tu, bảo tồn di tích này đạt hiệu quả, vừa đảm bảo tính chân xác, vừa đảm bảo tính mỹ thuật, việc nghiên cứu đưa ra một quan điểm bảo tồn đúng hướng cũng như giải pháp tu bổ phù hợp, chính xác, chuẩn mực là điều hết sức cần thiết. Vì vậy, trong hội nghị, diễn đàn này, chúng ta - những nhà nghiên cứu, chuyên gia, các tổ chức uy tín trong lĩnh vực bảo tồn di sản, những người yêu di sản Hội An,… ở trong nước và quốc tế sẽ cùng nhau thảo luận, xác định quan điểm cũng như định hướng để tạo nên sự đồng thuận, sự thống nhất cao trong việc trùng tu, bảo tồn di tích chùa Cầu - một di tích tiêu biểu, một biểu trưng văn hóa kiến trúc của Di sản văn hóa thế giới Hội An. Việc làm này hết sức có ý nghĩa nhằm gìn giữ, bảo tồn nguyên vẹn di tích chùa Cầu không những cho hôm nay mà còn cho các thế hệ mai sau.
[1] Quốc Sử quán triều Nguyễn,
Đại Nam Nhất thống chí, tập 2, Nxb Thuận Hóa, 1997, trang 379.
[2] Thích Đại Sán,
Hải ngoại ký sự, Viện Đại học Huế, Ủy ban phiên dịch sử liệu Việt Nam, 1963, trang 154.
[3] Liste Général de classement des Nonuments historiques de L’Indochine.
[4] Theo Hồ Ngận (1962),
Quảng Nam xưa và nay, Nxb Thanh Niên, xuất bản năm 2003.
Chú ý: Việc đăng lại bài viết trên ở website hoặc các phương tiện truyền thông khác mà không ghi rõ nguồn http://hoianheritage.net là vi phạm bản quyền