Nhà ngoại giao – nhà nghiên cứu lịch sử Nhật Bản Yoshiharu Tsuboi lúc đầu yêu Hội An cũng chỉ qua những sử liệu mơ hồ, chỉ thực sự từ khi bước chân đến Hội An, Anh mới bàng hoàng trước những minh chứng của thương dân Nhật Bản trên đất Hội An.
“Nhà Hội An học” Nguyễn Bội Liên sinh năm 1911 và mất năm 1996. Năm nay kỷ niệm 20 năm ngày ông qua đời và cũng là kỷ niệm 105 năm ngày sinh của ông - một trí thức tiêu biểu của Hội An.
Hằng năm, sau thời gian tết Nguyên Đán, trong không khí đầu xuân tiết trời tươi đẹp, tại một số di tích tín ngưỡng ở Hội An, cộng đồng cư dân địa phương thường tổ chức lễ cúng cầu an và lễ cúng đất nhằm cầu mong trời đất, các chư thần phù hộ cho dân làng bình an, mùa màng tươi tốt, nhân dân no ấm, mạnh khỏe.
Giữa năm 2013 bãi biển Cửa Đại được tạp chí Trip Advisor (Mỹ) tôn vinh là một trong 25 bãi biển đẹp nhất châu Á với đánh giá “Sự bình yên tĩnh lặng cùng vẻ đẹp được thiên nhiên ưu đãi đã giúp bãi biển Cửa Đại của Việt Nam luôn nằm trong top những bãi biển đẹp nhất trong khu vực”
Nghĩ về cụ Nguyễn Bội Liên (1911-1996) trong tâm trí kẻ hậu học như tôi luôn nhớ những buổi chiều nắng xế của phố cũ hè xưa, nắng rực lên trong góc gian nhà nhỏ quay mặt về hướng nam trên đường Nguyễn Thái Học (Hội An) soi tỏ chiếc bàn con mòn xước mặt gỗ được chủ nhân che bằng tấm nhựa trong, bọc dây thun.
Quan Công miếu, tên khác là Quan Thánh miếu, Trừng Hán cung, trong dân gian thường gọi là chùa Ông. Đây là một trong những công trình kiến trúc tín ngưỡng điển hình ở đô thị thương cảng Hội An. Bởi lẽ ngôi miếu không chỉ có giá trị cao về mặt nghệ thuật kiến trúc mà nơi đây còn lưu giữ nhiều văn bản Hán Nôm có giá trị về mặt văn học, lịch sử,... Đồng thời ngôi miếu là nơi thờ Quan Công, một vị tướng tài ba tượng trưng cho sự trung tín, một trong những yếu tố quan trọng trong hoạt động thương mại. Sách Đại Nam Nhất thống chí của triều Nguyễn có chép rằng, “Miếu Quan Công ở phố Hội An, huyện Diên Phước, do người làng Minh Hương xây dựng thờ Quan Thánh đế quân, quy chế lộng lẫy. Năm Minh Mạng thứ 6, Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế du tuần phương Nam, xa giá qua đền ban cho 300 lạng bạc…”.
Nhà tôi ở tại một vùng quê ven sông Đồng Giá. Chỉ cách đây 50, 60 năm vùng quê ấy vẫn còn những con đường chạy ngoằn ngèo giữa các xóm thôn với những hàng rào chè tàu ngăn cách các vườn nhà xen kẻ những bụi tre mọc ken dày, rậm rạp. Tại đây tôi đã đón nhiều cái tết thời thơ trẻ và hương vị những ngày tết xưa ấy vẫn còn sống động mãi cho đến bây giờ.
Dựng cây nêu là một tập tục truyền thống của cư dân Việt Nam nói chung, cư dân Hội An nói riêng vào dịp tết nguyên đán. Từ xa xưa, để chuẩn bị ăn Tết, người ta thường lo mua sắm, làm bánh mứt, vệ sinh, trang hoàng nhà cửa… và dựng một cây nêu trước sân nhà, sân đình,… Cây nêu là biểu tượng của sự trừ tà, trấn ác, ước mong bình an, mưa thuận gió hòa và khẳng định chủ quyền lãnh thổ đất đai của gia đình, làng xóm, cộng đồng. Chính vì vậy, cây nêu có ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống tinh thần của người dân Việt từ bao đời nay và là hình ảnh sinh động tạo cho mùa xuân thêm rộn ràng sắc màu, và đây là hình ảnh mang đậm bản sắc văn hóa Việt Nam.
Tính đến nay, trên địa bàn thành phố Hội An đã có 25 di tích/địa điểm khảo cổ cùng hàng ngàn di vật được phát hiện thuộc các thời kỳ Tiền - Sơ sử như di tích Bãi Ông ở Cù Lao Chàm, di tích mộ táng An Bang, Hậu Xá II, Xuân Lâm, Thanh Chiếm và di tích mộ táng - di chỉ cư trú Hậu Xá I của phức hệ Văn hóa Sa Huỳnh; Di chỉ Đồng Nà, Trảng Sỏi, Ruộng Đồng Cao, Ruộng rau muống chùa Bà Mụ, lăng Bà, Bãi Làng thuộc thời kỳ Champa và nhiều di tích thuộc thời kỳ Đại Việt như Di chỉ đình Cẩm Phô, đình ấp Tu Lễ, nhà 129 Phan Chu Trinh, nhà 16 Nguyễn Thị Minh Khai, nhà số 76/18, 80, 85 Trần Phú, Hội quán Triều Châu, trường Nguyễn Duy Hiệu, trường Trần Quý Cáp, Chùa Cầu, nhà 52/2 Phan Chu Trinh và tàu đắm cổ Cù Lao Chàm.
Từ những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, hoạt động thể dục thể thao ở Hội An hoạt động khá sôi nổi và mạnh mẽ, với nhiều bộ môn hình thành và phát triển, trong đó có bộ môn võ thuật.
Trong giai đoạn những năm 1941 đến 1943, Viện Viễn Đông bác cổ đã tiến hành điều tra về làng xã ở Quảng Nam, trong đó có nhiều làng xã ở Hội An gồm có Điển Hội (Hội An), Cẩm Phô, Minh Hương, Sơn Phong, Sơn Phô, Để Võng, Thanh Hà, Thanh Nam, Thanh Đông, Tân Hiệp và An Mỹ. Tài liệu về đợt điều tra này là bản viết tay liên quan đến các vấn đề của làng xã truyền thống, là một nguồn tư liệu quý cung cấp những thông tin về làng xã trước đây. Dưới đây xin được giới thiệu một số thông tin về làng Sơn Phô xưa.
Ngay trong những ngày đầu năm 2016, Hội An dẫn đầu top thành phố là điểm đến hàng đầu trên thế giới với tỷ lệ bình chọn là 98.5% do tạp chí du lịch Wanderlust - Anh tổ chức. Đến tháng 7, Hội An được ghi nhận ở vị trí thứ 6 hạng mục những thành phố tuyệt nhất Châu Á trong giải World’s Best Awards của tạp chí Travel & Leisure. Hội An còn đạt được sự công nhận danh hiệu, chứng nhận, xếp hạng ở cấp quốc gia, cấp tỉnh liên quan đến di sản văn hóa. Đó là những nhận xét khách quan, xác thực dành cho những nỗ lực trong công tác bảo tồn, phát huy di sản văn hóa mà thành phố chúng ta cùng chung tay, đồng lòng thực hiện.
Không chỉ đơn thuần với chức năng lưu giữ, trưng bày hiện vật, nhiều bảo tàng ngày càng rõ hơn vai trò là một thiết chế văn hóa công cộng, thu hút du khách gần xa.
Chắc chắn vấn đề đặt ra sẽ không xa lạ gì với người dân sống ở đô thị cổ Hội An - nơi mà các di sản văn hóa đô thị đã trở thành “di sản văn hóa thế giới” từ 17 năm nay.
Bạn tôi nói, về Hội An cứ thích nhìn lên gác hai những ngôi nhà cổ. Ở đó, có một cuộc sống mà chắc rằng, nếu vội vàng, không bao giờ người ta cảm nhận được.
Sống trên tầng cao
Miếu Trung Giang, tên gọi dân gian là Lăng Ông hiện tọa lạc tại thôn Trung Hà, xã Cẩm Kim. Hiện trạng miếu có mặt tiền xoay về hướng Nam. Các mặt phía Bắc, Đông, Nam giáp với đất trống, phía Nam là cánh đồng trồng hoa màu; giữa bình phong và miếu có đường bê tông cắt ngang khuôn viên. Tổng thể di tích bao gồm các hạng mục: bình phong, hiên và miếu chính.
Giữa một rừng bảng hiệu đã được “đồng phục hóa”, sự tồn tại của những tấm bảng hiệu nhuốm màu thời gian, khiêm nhường và khác biệt đã lặng lẽ góp thêm chút thâm trầm, xưa cũ cho không gian phố cổ Hội An.
Nhiều giải pháp được các sở ngành, địa phương đưa ra nhằm nỗ lực đưa lao động trẻ quay về làng. Trong khi đó, tại các xưởng nghề của nhiều doanh nghiệp, số lao động trẻ đã bắt đầu đông hơn, một số đã tìm thấy cảm hứng, niềm hy vọng gắn bó với nghề truyền thống. Tuy nhiên, đây cũng chỉ là những tín hiệu ban đầu.
Nếu các làng nghề vẫn đau đáu chuyện thiếu lao động trẻ, thì ở các xưởng của những nghệ nhân, thậm chí ngay cả doanh nghiệp hành nghề truyền thống trong tỉnh, vẫn có những lớp thợ trẻ miệt mài ngày đêm… Ngược lại, ở các trường nghề hay chương trình đào tạo lao động nông thôn, nghề thủ công dường như bị bỏ quên.
Đã từng được kỳ vọng như một điểm sáng của bức tranh nông thôn, các làng nghề, làng nghề truyền thống là nơi chốn giữ gìn và phát huy bản sắc của làng. Nhưng rồi cơn lốc thị thành, công nghiệp… đã cuốn những người thợ của làng ra đi, để hiện tại, muốn thấy thợ trẻ ở các làng nghề, phải đỏ mắt kiếm tìm…