Tín ngưỡng thờ cúng âm hồn là một trong những nếp sinh hoạt văn hóa mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Tại Hội An, tín ngưỡng này thấm sâu vào trong đời sống văn hóa dân gian của cộng đồng cư dân không chỉ đối với người Việt mà còn đối với cả người làng Minh Hương, người Hoa. Trong lịch sử, bên cạnh những Nghĩa Trủng, Vạn Thiện Đồng Quy để chôn cất, quy tập hài cốt người quá cố không rõ nhân thân, cộng đồng cư dân Việt, Minh Hương, Hoa ở Hội An còn xây dựng những công trình kiến trúc để thờ cúng anh linh, âm hồn được gọi là miếu Âm Linh/Cô Hồn, lăng Nghĩa Trủng, Nghĩa Từ, Thanh Minh Từ, Thanh Minh Đình… Dù trải qua thiên tai, chiến tranh nhưng không ít những công trình này được cộng đồng cư dân gìn giữ, bảo tồn cho đến ngày nay đã góp phần tạo nên những giá trị của di sản văn hóa Hội An. Nội dung dưới đây là những thông tin về di tích Nghĩa Từ, tên gọi khác là miếu Âm Hồn, tọa lạc tại số 76/9A Trần Phú, khối An Định, phường Minh An, thuộc khu vực bảo vệ I khu phố cổ Hội An.
Hội An nằm trong vùng nhiệt đới ẩm gió mùa, mỗi năm lại hứng chịu nhiều đợt gió phơn Tây Nam khô khốc nên khí hậu tương đối khắc nghiệt, thường hay phát sinh những bệnh thời khí, cảm mạo. Vì vậy,từ xưa cư dân nơi đây đã tích lũy nhiều kinh nghiệm để phòng và trị bệnh ngay từ lúc mới sơ khởi. Những hiểu biết ấy được hình thành qua một quá trình lâu dài sinh sống, khai thác, sử dụng các sản vậtsẵn có của địa phương; từ nền tảng kinh nghiệm của tiền nhân với những bài thuốc, vị thuốc hiệu nghiệm mà họ mang theo trong hành trình nam tiến mở mang bờ cõi. Đó còn là sự kết tụ, học hỏi từ các nền y học nổi tiếng thế giới trong quá trình giao lưu, thương mại ngay trên mảnh đất lành mà họ neo trụ lại.Vì thế cho nên Hội An không chỉ có nhiều hiệu thuốc nổi tiếng một thời như: Nam Xương Đường, Thuận An Đường, Duy Ích, Chấn Long Hiệu, Huệ Dân, Hòa Xuân, Quân Thắng, Minh Đức Đường… mà trong việc tổ chức đời sống thường ngày, người dân nơi đây cũng lưu giữ nhiều bài thuốc để tự chữa lành một số bệnh thường gặp, rất nhiều trong số đó là món ăn, thức uống trong bữa cơm gia đình.
Không chỉ để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng du khách thập phương với cảnh sắc nên thơ, hữu tình, Hội An còn đánh thức giác quan con người bằng những đặc sản ẩm thực độc đáo. Khứu giác bị kích thích với những mùi hương không trộn lẫn. Vị giác được phiêu lưu qua nhiều cung bậc chua, cay, đắng, béo, mặn, ngọt... Thị giác được thưởng thức một buổi trình diễn đầy sắc màu của rau xanh, mì vàng, hành tím, gấc đỏ, tôm hồng… Thính giác tận hưởng tiếng đập giòn tan của bánh tráng, tiếng vỡ giòn của đậu phụng rang, tiếng lộp xộp của rau sống, tiếng chan húp xì xụp, tiếng hít hà vị cay, vị đắng. Và hiếm nơi đâu, thưởng thức ẩm thực còn vận dụng đến cả xúc giác như các món xé, lột, cuốn, chấm như ở Hoài phố.
Quá trình giao lưu, tiếp biến văn hóa mạnh mẽ và lâu dài giữa cư dân Đại Việt, chủ yếu là cư dân vùng Thanh - Nghệ đến sinh sống ở vùng đất phương Nam với cư dân Chăm-Hoa-Nhật-Phương Tây ở đô thị - thương cảng Hội An trong nhiều thế kỷ đã dần kết tinh trong các truyền thống văn hóa vật thể, phi vật thể ở vùng đất này, mà trong đó các tôn giáo như Phật giáo, Thiên Chúa giáo có vai trò khá quan trọng. Nội dung dưới đây của bài viết là những thông tin ban đầu về ảnh hưởng của Phật giáo đối với các di tích văn hóa tín ngưỡng và các sinh hoạt văn hóa tinh thần của người dân Hội An qua những cứ liệu điền dã với mong muốn góp phần tìm hiểu những nét đặc trưng của văn hóa địa phương.
Chùa Chúc Thánh tọa lạc tại Hội An, tỉnh Quảng Nam, là nơi khai sinh ra chi phái Thiền Chúc Thánh của Thiền Lâm Tế. Theo sách Việt Nam Phật giáo sử luận của Nguyễn Lang, chùa Chúc Thánh đã được Thiền sư Minh Hải - Pháp Bảo khai sơn vào cuối thế kỷ XVII. Vị Thiền sư này người tỉnh Phước Kiến, sang nước ta vào thời Chúa Nguyễn Phúc Trăn (1687 - 1691). Ông đã dự giới đàn tại chùa Linh Mụ, sau đó vào Hội An dựng chùa Chúc Thánh. Dần dần ngôi chùa này trở nên một ngôi tổ đình lớn ở miền Trung và miền Nam.
Nằm về phía hạ lưu Thu Bồn, Hội An là nơi những dòng sông hòa mình vào lòng biển mênh mông sóng. Vị mặn mòi muối biển tan loãng trong chất đậm ngọt phù sa tạo môi trường thuận lợi cho hệ sinh thái nơi cửa sông, ven biểnsinh sôi,phát triển.Các loài thủy sản như tôm, cua, cá mực… nơi đây do vậy cũng mẩy thơm, chắc mẫm hơn nhiều đoạn khúc khác trên dòng chảy dằng dặc Thu Bồn. Vùng giao hòa phong phúấy, dân gian gọi là vùng nước pha. Ngày tràn nắng giữa độ tròn trăng, theo con nước ròng là mùa của ghẹ nước pha gọi mời nhắc nhở.
Thật may mắn, tự hào cho nhân dân Hội An hôm nay và các thế hệ mai sau là các lớp tiền nhân đã sáng tạo, để lại một di sản văn hóa vô giá - đó là quần thể di tích kiến trúc khu phố cổ cùng với những giá trị văn hóa phi vật thể độc đáo; Thiên nhiên cũng ưu ái ban tặng cho nhân dân Hội An một môi trường sinh thái: sông nước - biển - đảo với nhiều điểm kỳ thú, hấp dẫn. Đặc biệt có hệ sinh thái - đa dạng sinh học hết sức phong phú, với nhiều cá thể độc đáo.
Hiện nay, trên địa bàn xã đảo Tân Hiêp có 37 di tích - danh thắng nằm trong danh mục bảo vệ của thành phố. Trong đó, có 7 di tích được xếp hạng cấp quốc gia vào năm 2006, 01 di tích xếp hạng cấp tỉnh vào năm 2016, các di tích còn lại nằm trong danh mục bảo vệ của thành phố Hội An. Dưới đây là một số thông tin về các di tích được xếp hạng cấp tỉnh, quốc gia.
Phổ cổ Hội An bây giờ không còn xa lạ với khách thập phương trong và ngoài nước. Hai chữ Hội An nhắc nhớ một vẻ đẹp hài hòa, gắn kết giữa đất và người, thắng cảnh và văn hóa, quá khứ và hiện tại; giữa cái hữu hình của những con phố thâm trầm rêu phong, những làng nghề lâu đời, những món quà lưu niệm truyền thống với cái vô hình của mùi vị ẩm thực đặc sản, của những thanh âm vang vọng nhạc cổ truyền, những tiếng rao đêm, tiếng guốc gõ nhịp trên đường vắng và của cốt cách con người phố Hội giản dị, thiệt thà, hiếu khách…
Trong các thế kỷ trước, với vai trò là một đô thị - thương cảng có lịch sử lâu đời và là nơi tụ cư, hợp cư của nhiều thành phần cư dân liên tục trong nhiều thời kỳ, nhiều thế kỷ nên tại thương cảng Hội An, cùng với việc phát triển về hoạt động thương nghiệp - ngoại thương là sự ra đời và hoạt động nhộn nhịp của các ngành nghề, làng nghề thủ công. Qua khảo sát thực địa, đối chiếu với các tư liệu thư tịch và tư liệu dân gian, cho thấy rằng hoạt động của các nghề thủ công truyền thống, các làng nghề truyền thống ở Hội An có một số đặc điểm sau:
Năm Kỷ Hợi 1719, mùa xuân tháng 3, chúa Nguyễn Phúc Chu đích thân đem quân vào phía Nam xem xét các dinh trấn Quảng Nam, chỉnh đốn binh mã; sai Văn chức Nguyễn Khoa Đăng (con Bảng khoa hầu Nguyễn Khoa Chiêm) đi khảo sát, từ Quảng Nam đến Phú Yên cho lập ấp thuộc. Đến Hội An, nhân thấy phía Tây phố có cầu, là nơi thuyền buôn tụ họp nên đặt là cầu Lai Viễn, viết chữ vàng ban cho. Vậy là ngoài những cái tên dân dã có từ lâu: cầu Nhật Bản, Cầu Chùa (hoặc Chùa Cầu) thì cây cầu độc đáo này còn có một mỹ tự: Lai Viễn Kiều.
Hội An như luôn gọi những người đã đi xa phải trở về, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng phải quay về.
Thuật ngữ Indigenuos Knowledge (Tri thức bản địa) được Robert Chambers dùng lần đầu tiên trong một ấn phẩm xuất bản năm 1979, sau đó được Brokensha và D.M.Warren sử dụng vào năm 1980 và tiếp tục phát triển, phổ biến cho đến nay (1). Tri thức bản địa được hiểu là một dạng tri thức địa phương, tri thức truyền thống gắn liền với những kinh nghiệm trong ứng xử, tương tác với môi trường tự nhiên và trong tổ chức đời sống cộng đồng được tích luỹ, kế thừa liên tục từ đời này qua đời khác, thế hệ này qua thế hệ khác. Với những kết quả nghiên cứu, thực nghiệm ở nhiều địa bàn/cộng đồng dân cư cho thấy tri thức bản địa có vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội theo hướng hiệu quả và bền vững. Ngân hàng thế giới (WB) cho rằng “Tri thức bản địa là tri thức địa phương, là nền tảng cơ bản cho việc thiết lập các quyết định liên quan đến địa phương trên mọi lĩnh vực của cuộc sống đương đại bao gồm quản lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên, dinh dưỡng, thức ăn, y tế, giáo dục và trong các hoạt động xã hội và cộng đồng. Tri thức bản địa còn cung cấp các chiến lược nhằm giải quyết các vấn đề đặt ra cho cộng đồng dân cư địa phương” (2).
Bóng đá là một trong những môn thể thao được nhiều người trên thế giới yêu thích, được mệnh danh là môn thể thao “vua”. Bóng đá du nhập vào Việt Nam theo “dấu chân” người Pháp vào khoảng năm 1896, khu vực miền Nam là nơi được tiếp cận đầu tiên với bóng đá, sau đó lan tỏa đến miền Bắc và miền Trung (1).
Tài liệu Hán Nôm được xem như một minh chứng sống cho những giá trị lịch sử, cho một nền văn học nước nhà từ những thế kỷ trước. Trong sự giao thoa giữa các nền văn hóa, giữa sự chuyển biến đầy khó khăn, Hán Nôm vẫn phát triển một cách mạnh mẽ để trở thành chữ viết của dân tộc ta trong một thời gian dài. Đặc biệt, tài liệu Hán Nôm phản ánh những giá trị chân thật nhất về vấn đề lịch sử, văn hóa, xã hội, những nếp sống, vấn đề con người mà không ở đâu có thể lột tả một cách chân thật và sâu sắc đến vậy.
Hội An được biết đến không chỉ là di sản văn hóa thế giới, phong cảnh hữu tình, con người thuần hậu mà còn nổi tiếng với một nền ẩm thực phong phú. Từ các món ăn đường phố đến nhà hàng sang trọng đều mang trong mình những nét độc đáo riêng. Trải qua hàng trăm năm giao thoa và tiếp biến nhiều luồng văn hóa, ẩm thực Hội An không chỉ làm người ta say mê từ mùi, từ vị mà còn kích thích thị giác bằng nhiều sắc màu hấp dẫn. Từ xa xưa, người Hội An đã tận dụng những nguyên liệu sẵn có trong tự nhiên để tạo màu và làm tăng thêm hương vị đậm đà cho các món ăn.
Ngày 28/3/1975 - ngày giải phóng Hội An là sự kiện lịch sử có ý nghĩa trọng đại, cột mốc đánh dấu sự thắng lợi hoàn toàn trên chặn đường đấu tranh giải phóng quê hương vô cùng anh dũng, vẻ vang của Đảng bộ và nhân dân Hội An. 44 năm trôi qua, khí thế hào hào hùng của cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975 vẫn còn đọng lại trong ký ức của nhiều người con Hội An. Đặc biệt trong số 69 di tích/dấu tích được thành phố ghi vào danh mục di tích lịch sử - văn hóa có một số địa điểm ghi dấu về quá trình hoạt động, ghi dấu những chiến công của quân và dân Hội An liên quan đến sự kiện này.
Hội An là một trong số cảng thị được hình thành khá sớm ở khu vực duyên hải miền Trung nước ta. Với vị thế địa lịch sử - văn hóa, Hội An từng là nơi thu hút thương thuyền nhiều nước trong khu vực và trên thế giới đến giao thương, buôn bán như Trung Quốc, Nhật Bản, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh, Pháp…
Vào thế kỷ XVI, XVII, Hội An (Quảng Nam) là một thương cảng quốc tế vô cùng sầm uất, thu hút thương nhân từ khắp nơi trên thế giới đổ về để mua bán hàng hóa. Trong khi đó, ở châu Âu, Bồ Đào Nha cùng với hạm đội hùng mạnh của mình đã khám phá thành công tuyến đường hàng hải mới đến Ấn Độ, Đông Nam Á và Viễn Đông. Như một cơ duyên lịch sử, cùng với chính sách mở cửa của chúa Nguyễn, Hội An đã trở thành một trong những địa điểm đầu tiên ở Đàng Trong thiết lập quan hệ thương mại với người Bồ Đào Nha.
Văn hóa làng xã là một nội dung đặc biệt quan trọng trong chương trình phối hợp nghiên cứu giữa Học Viện Hành chính Quốc gia (Việt Nam Cộng hòa) và Nhóm Cố vấn trường Đại học Bang Michigan từ những năm 1960. Đầu tiên là hợp tác nghiên cứu vùng đồng bằng châu thổ sông Cửu Long, rồi đến chương trình nghiên cứu làng xã miền Trung, bắt đầu với trường hợp làng chài Cẩm An từ năm 1962 (bao gồm phường Cẩm An, Cửa Đại và xã Tân Hiệp thuộc thành phố Hội An). Từ đó, nhóm nghiên cứu của TS. John D. Donoghue đã khắc họa thành công những đặc điểm quan trọng trong cuộc sống người dân nơi đây qua các khía cạnh: tổ chức làng xã – trị an, nghề cá và vạn chài, hôn nhân – gia đình, tín ngưỡng – lễ nghi và khát vọng tương lai (Donoghue, John, 1962, “Cam An: A Fishing Village in Central Vietnam”, 123 trang).