Từ xưa đến nay, những tập tục, lễ lệ đã trở thành một nét văn hóa không thể thiếu trong đời sống của người dân Việt Nam nói chung, người dân Hội An nói riêng. Những hình thức sinh hoạt văn hóa đó thể hiện sự biết ơn, kính trọng với các bậc bề trên, chứa đựng những mong ước thiết tha, vừa thánh thiện, vừa đời thường, vừa thiêng liêng, vừa thế tục của bao thế hệ con người. Đồng thời, nó cũng đóng góp một phần không nhỏ trong việc xây dựng lối sống đạo đức, hướng thiện của người dân.
Hội An là nơi lưu giữ một hệ thống tài liệu Hán Nôm khá phong phú, mặc dù trải qua các cuộc chiến tranh trong thời gian dài, là khu vực hạ nguồn thường xuyên chịu ảnh hưởng thời tiết về lũ lụt, mưa bão, tình trạng ẩm mốc, hư hại nhiều,… nhưng số lượng vẫn còn tồn tại khá nhiều so với các địa phương khác. Tài liệu đa dạng về hình thức, thể loại như gia phả, sắc phong, các văn bản hành chính, văn khế buôn bán đất đai, nhà cửa, các chúc thư, lễ lệ của gia đình, dòng tộc, hoành phi, liễn đối, văn bia,… hiện còn được lưu giữ khá nguyên vẹn tại các gia đình, nhà thờ, các đình, chùa, miếu, mộ, nơi thờ cúng tín ngưỡng,.
Cẩm Kim là một trong 13 xã/phường của thành phố Hội An, có lịch sử khá lâu đời. Tên xã Cẩm Kim ra đời vào năm 1956. Trước đó, Cẩm Kim được gọi là làng/xã/châu Kim Bồng. Tộc Phan, cùng với các dòng họ lớn như: Nguyễn, Huỳnh, Trương… gốc ở vùng Thanh Hóa, Nghệ An theo phong trào “Nam tiến” của nhà nước phong kiến Đại Việt, đặc biệt là công cuộc vào Nam của các chúa Nguyễn vào lập nghiệp tại Quảng Nam vào khoảng thế kỷ XVI, XVII và đã có công khai dựng làng quê, làng nghề mộc, nề Kim Bồng ở Cẩm Kim.
Khi vào khai phá đất Đàng Trong năm 1558, tuy mới ngoài 30 tuổi nhưng Nguyễn Hoàng (1524-1613), với tầm nhìn chiến lược và những biện pháp thận trọng, ông đã chuẩn bị những bước đi lâu dài cho việc xây dựng và phát triển của một chính thể lâu dài. Để thu phục nhân tâm và cũng là để giữ sự bình yên cho chính thể, Nguyễn Hoàng đã ra sức: “vỗ về quân dân, thu dùng hào kiệt, sưu thuế nhẹ nhàng, được dân mến phục, bấy giờ thường xưng là Chúa Tiên. Nghiệp đế dựng nên thực là xây nền từ đấy”. (1)
Ẩm thực là một phần không thể thiếu trong đời sống của cộng đồng cư dân Hội An. Trải qua lịch sử, những món ăn đặc sản; những hàng quán ẩm thực với cách bài trí, phục vụ mang những nét riêng; những gánh hàng rong; cách ăn uống… tất cả đã góp phần tạo nên sự phong phú, đa dạng về văn hóa ầm thực của người dân nơi đây. Ẩm thực cũng có sự tiếp biến kế thừa, trao truyền lẫn nhau qua các thế hệ, qua từng thời kỳ. Sự tiếp biến ấy qua thời gian dẫn đến những thay đổi nhất định như trong cách ăn uống, cách sử dụng nguyên liệu và chế biến món ăn v.v…
Những người sinh ra và lớn lên ở Hội An, hoạt động và lập nghiệp ở Hội An, có những kỷ niệm đằm thắm và những mối tình nồng nàn ở Hội An - những người con của phố Hội, yêu dào dạt và sâu thẳm mảnh đất này âu cũng là đương nhiên, bởi có nơi nào đẹp hơn, đáng yêu hơn quê hương của mình. Nhưng kỳ lạ thay với những người khác - với cả các bạn nước ngoài - dù chỉ một lần đến Hội An, cũng đều bị quyến rũ, bị chinh phục bởi Hội An, cái đô thị cổ nhỏ bé và êm đềm này.
Việc thờ phụng các vị nữ thần, thánh mẫu vốn đã rất phổ biến trong xã hội Việt Nam từ trước đến nay, đó là một khuynh hướng tín ngưỡng thiêng liêng của nhân dân Việt Nam. Tín ngưỡng này tôn thờ người phụ nữ trên cơ sở truyền thống coi trọng vai trò người mẹ trong gia đình và xã hội của người Việt Nam. Từ nhu cầu tín ngưỡng thờ nữ thần, các công trình kiến trúc tín ngưỡng, các hình thức nghi lễ thờ cúng, lễ hội và các dạng sinh hoạt tín ngưỡng khác liên quan cũng được hình thành, phát triển, góp phần tạo nên tính đa dạng của văn hóa Việt Nam.
Thanh Hà xưa (bao gồm cả xã Cẩm Hà và phường Thanh Hà hiện nay), là một làng được hình thành khá sớm ở Hội An, địa bàn dân cư sinh sống khá rộng lớn, phía Nam là sông Hội An (thuộc hạ lưu sông Thu Bồn); phía Tây giáp với phường Điện Nam, Điện Dương thuộc thị xã Điện Bàn; phía Đông giáp với phường Cẩm Phô, Cẩm Châu; phía Bắc – Đông Bắc giáp với phường Cẩm An bởi con sông Cổ Cò - Đế Võng và có một xóm/ấp Cồn Động (thuộc Thanh Hà xưa) nằm trên đất Cẩm An hiện nay. Và đặc biệt có con đường tỉnh lộ 607 và 608 đi qua Thanh Hà xuống Faifo - Hội An.
Có lẽ cũng chẳng ngoa khi chọn một chỗ đứng cho người làm văn hóa Hội An như Nguyễn Chí Trung bằng danh xưng: người kể chuyện phố cổ. Ông lặng lẽ tìm kiếm, viết lách, lưu giữ... muôn điều của phố Hội bằng con đường rất riêng của mình.
Năm 1885, ách đô hộ của thực dân Pháp làm biến động lịch sử Việt Nam, mở ra một giai đoạn đầy thăng trầm cho đất nước. Hội An cũng không ngoại lệ. Tuy nhiên, những ưu thế về mặt địa lý, cơ sở hạ tầng, kinh tế giúp Hội An tiếp nhận làn gió Pháp thuộc một cách nhẹ nhàng hơn. "Tỉnh thành đóng tại La Qua - Hội An tòa sứ vốn là việc quan". Được chọn làm trụ sở Công sứ tỉnh Quảng Nam và nhiều cơ quan then chốt của chính quyền thực dân, Hội An có điều kiện giao lưu, tiếp biến nhiều luồng văn hóa tiến bộ của phương Tây nói chung và Pháp nói riêng. Điều này thể hiện rõ nét qua kiến trúc, lối sống, kinh tế, ngôn ngữ, tôn giáo… Đến nay, một bộ phận ca dao, dân ca phản ánh về thời kỳ này được lưu truyền rộng rãi trong người dân Hội An.
Ở Hội An hiện có rất nhiều ngôi mộ cổ với nhiều hình thức kiến trúc, kết cấu khác nhau, có sự phong phú, đa dạng về thành phần chủ nhân, tập quán tống táng. Những ngôi mộ này là minh chứng sinh động cho quá trình phát triển liên tục của vùng đất Hội An, muộn nhất cũng từ thế kỷ thứ I trước công nguyên đến nay với thành phần cư dân gồm nhiều quốc tịch. Làng Thanh Hà là vùng đất hiện còn bảo tồn được rất nhiều ngôi mộ cổ.
Cù Lao Chàm là một cụm đảo cách bờ biển Hội An 18km, gồm 8 hòn đảo lớn nhỏ. Nơi đây có khí hậu quanh năm mát mẻ và hệ động vật, thực vật rất phong phú. Hầu hết các đảo này không có người sinh sống, ngoại trừ Hòn Lao - là đảo lớn nhất ở Cù Lao Chàm. Trong các công trình nghiên cứu khảo cổ - lịch sử thời gian qua đã chứng minh cách đây 3000 năm đã có cư dân sinh sống trên đảo Cù Lao Chàm. Thời tiền Sa Huỳnh đến Champa, Đại Việt kế tiếp nhau sinh sống đến này hôm nay.
Trong khoảng thời gian từ nửa đầu thế kỷ XVI đến khoảng thế kỷ XIX, Hội An là vùng đất có vị thế quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa, quân sự của Quảng Nam nói riêng, Đàng Trong nói chung; được các Chúa, sau đó là triều đình nhà Nguyễn quan tâm thể hiện qua nhiều chính sách, biện pháp cụ thể liên quan đến Hội An được sử liệu ghi chép. Đặc biệt ở Hội An có một số hiện vật, di tích lưu giữ dấu ấn của các Chúa, vua nhà Nguyễn như: Bức hoành đề 4 chữ “Cứu thế độ nhân” ở đình Sơn Phong được chúa Nguyễn Phúc Chu ban tặng; Bức hoành đề 3 chữ “Lai Viễn Kiều” ở chùa Cầu được Chúa Nguyễn Phúc Chu ban tặng trong lần tuần du đến Hội An vào năm 1719; Bia đá mở đường thời Minh Mạng ở khối Nam Diêu, phường Thanh Hà.
Rất nhiều người bày tỏ sự tiếc nuối khi trẻ con Hội An bây giờ ít chơi những trò dân gian xưa, những trò mà chỉ mới cách đây một thế hệ, anh chị, cha mẹ của các em đã từng gắn bó, thân thiết vô cùng.
Dân gian xưa có câu rằng “Đố ai nằm võng không đưa/Ru con không hát đò đưa không chèo”. Đã từ bao đời, người dân hát ru để đưa trẻ con chìm vào giấc ngủ như một lẽ tự nhiên của đất trời, của tình yêu thương không điều kiện dành cho trẻ thơ. Còn với đứa bé, có lẽ không gì êm đềm, dịu dàng hơn thanh âm du dương được cất lên từ tình yêu, niềm âu yếm của cha, mẹ, ông bà, chắt chiu qua những câu ca, điệu hò thân thương của xứ sở.
Cù Lao Chàm - trước đây có nhiều tên gọi: Ciam pullo, Pulociampello, Tiêm Bích La, Chiêm Bất Lao… là một địa chỉ nổi tiếng trong quá trình giao thương buôn bán của các nước trên Biển Đông và được ghi chép lại qua các tư liệu lịch sử của các học giả trong và ngoài nước. Nhân hội thảo “Cù Lao Chàm: Đa dạng tài nguyên thiên nhiên – văn hóa và phát triển bền vững” tổ chức vào ngày 6/9 tới, xin giới thiệu một số thông tin về Cù Lao Chàm qua một số tư liệu.
Thời kỳ các chúa Nguyễn “cát cứ” ở Đàng Trong là thời kỳ phát triển “vàng son” của thương cảng Hội An. Thông qua nhiều tư liệu thành văn cũng như qua các kết quả khảo cổ học tại Khu phố cổ nói riêng, Hội An nói chung, có thể hình dung được rằng: dưới thời các chúa Nguyễn ở trung tâm Hội An có hai khu phố chính, nơi diễn ra buôn bán sầm uất, tấp nập hàng hóa đó là khu phố của người Nhật và khu phố của người Hoa (phố Khách). Vấn đề này càng được khẳng định hơn thông qua ghi chép của giáo sĩ C.Borri như sau: “Chúa Đàng Trong xưa kia người Nhật, người Tàu chọn một địa điểm và nơi thuận tiện để lập một thành phố... Thành phố này gọi là Faifo, một thành phố lớn đến độ người ta có thể nói được là có hai thành phố, một phố người Tàu và một phố người Nhật. Mỗi phố có khu vực riêng, có quan cai trị riêng và có lối sống theo tập tục riêng...”.
Vào cuối thế kỷ XVI, các chúa Nguyễn đã thiết lập quyền lực chính trị của mình ở Đàng Trong. Trước sức ép của chúa Trịnh ở Đàng Ngoài và để tạo chỗ đứng của mình ở phía Nam đòi hỏi các chúa Nguyễn phải xây dựng tiềm lực kinh tế, chính trị và quân sự lớn mạnh. Từ sự kế thừa truyền thống hướng biển của cư dân Chăm Pa cùng với tư duy, tầm nhìn mới, ngay từ rất sớm các chúa Nguyễn đã chủ trương đẩy mạnh thương mại hàng hải, chủ động mở cửa giao thương và phát triển một số cảng thị thành thương cảng quốc tế ở khu vực duyên hải miền Trung nước ta, trong đó thương cảng quốc tế Hội An là một điển hình tiêu biểu. Việc khuyến khích thương mại biển và mở rộng các mối quan hệ bang giao với nhiều nước đã tạo tiền đề và động lực thu hút các thương nhân nước ngoài (người Hoa, người Nhật, người Ấn Độ và phương Tây) đến Đàng Trong, đặc biệt là thương cảng Hội An để giao lưu, buôn bán. Tùy vào lợi ích mà các thương nhân này mang lại mà các chúa Nguyễn đã có những chính sách khác nhau, trong đó giới thương nhân Nhật Bản được ưu ái hơn cả bởi những lợi ích mà họ mang lại phù hợp với nhu cầu của chính quyền Đàng Trong trong bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ.
Miếu Bà hiện tọa lạc tại số 56B đường Nguyễn Thị Minh Khai, thuộc khối Hoài Phô, phường Cẩm Phô, thành phố Hội An. Trong thời kỳ phong kiến, khu vực này thuộc phổ Xuân Thành, ấp Tu Lễ, làng Cẩm Phô, tổng Phú Triêm Hạ, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.