1. Dấu ấn của những cuộc tiếp xúc đầu tiên
Sau chuyến viễn chinh của Vasco da Gama (1460-1524), Hoàng gia Bồ Đào Nha đẩy mạnh hơn nữa quá trình khám phá Ấn Độ Dương bằng việc xác lập thương điếm quan trọng tại Goa (Ấn Độ) và Diu (Ấn Độ) vào đầu thế kỷ XVI. Từ hai căn cứ này, Bồ Đào Nha hướng sự chú ý đến Đông Nam Á – một trong những trung tâm hương liệu của toàn thế giới. Với chiến lược: “
để giành được ưu thế về thương mại ở Ấn Độ Dương thì điều nhất thiết là phải chiếm và kiểm soát được các vị trí chiến lược chủ yếu và thúc đẩy hoạt động buôn bán có thể cung cấp thu nhập đủ để duy trì sức mạnh không gì cưỡng lại được” [5; 218], Afonso de Albuquerque (1453 – 1515) – phó vương Bồ Đào Nha tại Ấn Độ quyết định xâm chiếm Malacca (lúc này đang nằm dưới quyền thống trị của Sultan Mahmud Shah) vào năm 1511. Sau nhiều trận chiến quyết liệt, đến ngày 24.8.1511, Malacca đã nằm dưới quyền khống chế của Bồ Đào Nha. B.W.Diffie và G.D.Winius trong cuốn “
Foundations of the Portuguese Empire 1415-1580” ca ngợi: “
Việc chiếm đóng một thành phố thương mại lớn nhất của châu Á với lực lượng gần 900 người Bồ Đào Nha và 200 binh lính người Ấn Độ như là một sự kiện trong lịch sử các cuộc viễn chinh của người châu Âu vào không hề gây ấn tượng ít hơn việc xâm chiếm Tenochtitlan của Hernando Cortés” [1; 256].
Một trang trong cuốn du ký của Fernão Mendes Pinto (1510 - 1583) được xuất bản năm 1614
Việc xác lập thành công quyền thống trị ở Malacca đã tạo điều kiện thuận lợi cho hạm đội thương thuyền Bồ Đào Nha xâm nhập vào Đông Nam Á, tìm kiếm tuyến hải thương đến Trung Quốc. Vào tháng 2 năm 1516, phó vương Bồ Đào Nha ở Ấn Độ đã cử một hạm đội do Fernão Peres de Andrade chỉ huy khởi hành từ Goa. Sau khi dừng lại ở Malacca, đến tháng 8, ông cho tàu cập bến ở vịnh Cochinchina. Tuy nhiên, do gặp phải gió ngược chiều nên họ chỉ lưu lại đây vài ngày rồi trở lại Malacca [9; 337]. Đây có lẽ chính là sự kiện mà Li Tana dẫn lại ý kiến của Manguin đề cập đến trong tác phẩm “
Xứ Đàng Trong, Lịch sử Kinh tế – Xã hội Việt Nam thế kỷ XVII và XVIII”: “
Bồ Đào Nha có cuộc tiếp xúc đầu tiên với người Việt vào năm 1516,…” [13; 120]. Đến năm 1523, nhà hàng hải Duarte Coelho Pereira (1485 – 1554) là người Bồ Đào Nha đầu tiên đặt chân đến vùng đất “Cochinchina” (Đàng Trong) khi cho tàu qua Cửa Hàn (Đà Nẵng) và ghé vào Cù Lao Chàm (Pulo Champeiló). Tại đây, ông đã cho dựng một cây thánh giá có khắc chữ INRI (là những ký tự viết tắt cho câu viết tiếng Latinh:
Ieus Nazarenus Rex Iudaeorum, nghĩa là: “Giêsu người Nazareth, Vua dân Do Thái”), tên của ông và năm ông đến [8; 632]. Phải hơn mười lăm năm sau đó (1540), một thương thuyền Bồ Đào Nha khởi hành từ Patani dưới sự chỉ huy của thuyền trưởng Antonie de Faria (? – 1548) mới ghé vào thương cảng Hội An cho lần tiếp xúc thứ ba. Fernão Mendes Pinto (1510 – 1583) – một trong những thành viên tham gia thủy thủ đoàn đã ghi lại hành trình đáng nhớ này trong cuốn du ký Peregrinacao, chứa đựng khá nhiều thông tin thú vị về Cù Lao Chàm và Hội An: “
Ngày thứ Tư tiếp theo, chúng tôi rời khỏi sông Varela – thường được biết đến với tên gọi Tinacoreu, và tại đây hoa tiêu nghĩ rằng tốt nhất họ nên đến Pulo Champeilo (Cù Lao Chàm), là một hòn đảo không có cư dân cư trú nằm ngay lối vào của vịnh Cochinchina tại 14 độ 1/3 vĩ độ Bắc” [8, 74]. Sau khi vào bên trong thương cảng, ông bắt gặp “
một hạm đội thuyền lớn và rất hùng dũng khoảng 40 chiếc, mỗi chiếc trong số đó có từ 2 đến 3 tổ quạ trên cột buồm, và sợ rằng đó là một trong những dấu hiệu riêng của đội thuyền thuộc chính quyền bản địa…” [8; 75]. Đến cảng thị “
là một thị xã có diện tích vừa phải với trên 30.000 cư dân được bao bọc bởi tường thành xây bằng gạch có các tháp canh và thành lũy bố trí bên trong, một vòng thành ngoài và 2 con hào chạy vòng quanh [8; 75].
Duarte Coelho Pereira (1485 – 1554)
Những thông tin này đã đem lại cho người đọc hình dung ban đầu về một Hội An – thường được gọi là Faifoo hoặc Cochin-china Bay vào thế kỷ XVI. Đây là địa điểm thương thuyền Bồ Đào Nha ghé vào để lấy nước ngọt, củi đốt và dừng nghỉ chân trong chuyến hải thương từ Goa (Ấn Độ) đến các thương điếm tại Trung Quốc và Nhật Bản. Mặc dù các cuộc tiếp xúc này diễn ra không thường xuyên nhưng cũng đặt cơ sở quan trọng cho sự phát triển hoạt động giao thương ở giai đoạn tiếp sau.
2. Thương mại của người Bồ Đào Nha ở Hội An (thế kỷ XVI – thế kỷ XVII)
Trong thực tế, người Bồ Đào Nha đã quan tâm đến Hội An sau khi thương điếm Macao chính thức được xác lập vào năm 1557. Sự phong phú của các chủng loại hàng hóa đã trở thành một hấp lực lớn của thương cảng Hội An: “Hàng hóa sản xuất ở các phủ Thăng Hoa, Điện Bàn, Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Bình Khang và dinh Nha Trang, đường thủy, đường bộ, đi thuyền, đi ngựa, đều hội tập ở phố Hội An…” [13; 117-118]. Và chính Christophoro Borri trong Bản tường trình “Xứ Đàng Trong năm 1621” đã nhận xét: “Hảicảng đẹp nhất, nơi tất cả người ngoại quốc đều tới và cũng là nơi có hội chợ danh tiếng chính là hải cảng thuộc tỉnh Quảng Nam. Người ta cập bến bằng hai cửa biển: một gọi là Turon (Đà Nẵng) và một gọi là Pulluciambello (Hội An). [4; 91]. Thế nhưng, trong những năm cuối thế kỷ XVI, hoạt động giao thương của Bồ Đào Nha ở Hội An vẫn không có nhiều khởi sắc.
Động lực thúc đẩy sự liên kết thương mại giữa Bồ Đào Nha và Hội An đến từ một thế lực khác nằm ngoài lãnh thổ Việt Nam – thương nhân Nhật Bản và thương nhân Trung Quốc. Hai cộng đồng thương nhân này tập trung sinh sống ở Hội An do nhiều nguyên nhân khác nhau. Phần lớn thương nhân Thiên Chúa giáo Nhật Bản di cư đến thương cảng này như một sự trốn chạy khỏi sắc lệnh “cấm đạo” của Mạc phủ (1614). Phát hiện ra sự tập trung đông đúc và thường xuyên của thương nhân Nhật Bản tại Hội An, chính quyền Bồ Đào Nha tại Macao nhận thấy sự cần thiết phải duy trì sự hiện diện và phát triển buôn bán tại hải cảng này. Và vì vậy, năm 1615, các linh mục dòng Tên Bồ Đào Nha cũng đến đây với mục đích: “chăm sóc đời sống của tín đồ Nhật Bản, những người hàng năm đều từ Nhật Bản đến Cochin-china để buôn bán, và nhiều người trong số họ sẽ trú đông ở đây trong một hay nhiều năm để thiết lập quan hệ giao thương tốt hơn với người Cochin-china” [11]. Khi nền thương mại với Nhật Bản hoàn toàn chấm dứt vào năm 1639, thương nhân Bồ Đào Nha ở Macao chịu sức ép ngày càng gay gắt do sự thiếu hụt nguồn hàng hóa cung cấp cho thị trường Trung Quốc cũng như sự cạnh tranh mạnh mẽ của Đông Ấn Hà Lan (VOC). Vì thế, Hội An ngày càng đóng vai trò quan trọng trong chiến lược thương mại của người Bồ Đào Nha ở Macao. Cũng trong thời điểm lịch sử đó, quyết định chấm dứt chính sách “hải cấm” sau gần 200 năm duy trì (1567) của hoàng đế Minh Mục Tông đã trở thành động lực quan trọng thúc đẩy người Hoa khôi phục lại mạng lưới giao thương trên biển Đông. Thế nhưng việc họ quyết định định cư tại Hội An lại đến từ cuộc chiến Minh – Thanh (1618 – 1683). Quá trình nhập cư này diễn ra theo hai xu hướng chính: hoặc thành lập các bang theo ngôn ngữ gốc, hoặc nhập tịch và xin các chúa Nguyễn thành lập Minh Hương xã. Sự hình thành và phát triển của hai cộng đồng thương nhân Nhật Bản và Trung Hoa không những khiến cho thương mại đường biển trở nên sầm uất mà còn trở thành nhân tố nổi bật thu hút các thương nhân người Bồ Đào Nha từ Macao.
Cùng với chính sách thương mại cởi mở của các chúa Nguyễn, đến đầu thế kỷ XVII, “người Bồ cùng với người Nhật là thương nhân nước ngoài chủ yếu của thị trường Hội An” [14; 98]. Theo đó, “họ di chuyển theo hành trình của gió mùa, từ tháng 3 đến tháng 9 là sáu tháng gió thổi từ Tây Nam lên Bắc, từ tháng 9 đến tháng 12 là ba tháng gió thổi từ Đông Bắc xuống Nam, đó chính là hải trình của các đoàn thuyền buôn. Các thương gia vào đây để mua thêm thực phẩm tươi để dự trữ cho các chuyến hải trình từ Hội An đi Macao khoảng 9 ngày, hoặc từ Hội An đi Malaya khoảng 20 ngày” [7; 32]. Như vậy, thời điểm mở ra các cuộc giao dịch tại Hội An gần trùng với dịp Tết nguyên đán kéo dài trong sáu hay bảy tháng (từ tháng 2 đến tháng 9 dương lịch).
Mặt hàng chính trong tuyến giao thương này khá phong phú: “thuyền của họ chủ yếu từ Macao đến đầu kỳ mậu dịch mang theo các hàng đồ sành, đồ sứ, bạc thoi, diêm sinh, lưu huỳnh, chì kẽm, vải nỉ màu xanh, đỏ…Trong số hàng hóa thu được lãi cao nhất là các hợp kim. Người Bồ mua tổ yến, trầm hương, vải lụa, tơ, gỗ quý, quế, đường… chở về Macao hay Malacca. Họ chịu một khoảng thuế thương chính cao nhất trong các thương thuyền đến Hội An” [14; 98-99]. Hơn nữa, thương nhân Bồ Đào Nha cực kỳ ưa chuộng các mặt hàng xứ Quảng:“dân bản xứ có thói quen mang đến vào lúc ấy các sản phẩm trong xứ: sợi tơ sống và tơ đã chuốt, gỗ tốt đóng đồ đạc, gỗ trầm hương, đường, xạ hương, quế, hồ tiêu, gạo” [3; 35]. Không chỉ quan tâm đến các mặt hàng phổ biến, thương nhân Bồ (từ kinh nghiệm của thương nhân người Hoa) đặc biệt quan tâm đến kỳ nam hương: “Kỳ nam hương màu đen, có dầu và giá 50 cruzados một catty nơi người Bồ Đào Nha, trong khi tại chính nơi sản xuất, nó trị giá ngang với bạc, bao nhiêu kỳ nam hương là bấy nhiêu bạc” [13; 135]. Bên cạnh đó, đồng tiền, vàng thỏi và bạc cũng được thương nhân Bồ Đào Nha quan tâm: “Vào năm 1615, họ đã xuất khẩu 120.000 taels tiền đồng đến Cochinchina và bán được với giá 180.000 taels” [10;118].
Ở chiều ngược lại, mặt hàng của Bồ Đào Nha mà chính quyền nhà Nguyễn ưa chuộng nhất là vũ khí (đặc biệt là đại bác). Cuộc chiến tranh Trịnh – Nguyễn (1627-1672) đã trở thành cơ hội tốt thúc đẩy giao thương của người Bồ ở Hội An. Chúa Nguyễn rất mong muốn mua được loại “súng đồng tốt nhất tại phía Đông” từ xưởng đúc của người Bồ Đào Nha ở Macao (1627-1680). Khi Borri đến Cochinchina (1617-1622) dưới thời Sãi Vương Nguyễn Phúc Nguyên (1613 – 1635), ông đã nhận thấy sự xuất hiện của các loại vũ khí có nguồn gốc từ Bồ Đào Nha: “có khoảng 60 súng đại bác lớn nhất được bố trí trong cung điện nhà vua (chúa Nguyễn Phúc Nguyên)” [6; 1263]; “Nhà vua có một ngàn hai trăm khẩu đại bác, tất cả đều bằng đồng, trong số này người ta thấy nhiều khẩu có kích thước khác nhau, mang huy hiệu của Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha...” [13; 69]. Và “ngoài biển họ chiến đấu trên thuyền như đã nói, mỗi thuyền có súng đại bác và nhiều súng musqueton” [4; 84]. Đặc biệt, João da Crux (1610 – 1682) – một thợ đúc đại bác người Bồ Đào Nha đã phục vụ cho chúa Nguyễn từ những năm 1650 đến khi ông qua đời. Những đóng góp của Crux đã góp phần quan trọng cải thiện kỹ thuật đúc súng thần công của người Việt.
Hoạt động thương mại của người Bồ Đào Nha ở Hội An tuy không thể so sánh với Macao hay Malacca nhưng cũng đạt nhiều thành tựu. Quan hệ giao thương hòa bình giữa hai bên là một đặc điểm quan trọng trong hoạt động của người Bồ Đào Nha ở Hội An. Từ phía chính quyền bản địa, chúa Nguyễn Phúc Nguyên ưu ái cho thương nhân Bồ Đào Nha nhiều nhất. Chúa chủ động cấp đất cho người Bồ xây dựng trụ sở buôn bán và tạm trú như trường hợp của người Hoa và người Nhật. “Fernando da Costa là vị sứ thần được chúa Nguyễn nể trọng nên đã trục xuất thương nhân Hà Lan theo yêu cầu của Costa vì sự cạnh tranh của hai đối thủ phương Tây này tại Hội An vào đầu thế kỷ XVII” [2; 73]. Tuy nhiên khác với người Hà Lan hay Anh sau này, Bồ Đào Nha không thiết lập đại lý thương mại và chỉ thuê văn phòng và nơi cư trú trong khoảng thời gian thu mua hàng hóa tại Faifo-Hội An. Theo nhiều nguồn tài liệu, “văn phòng” của người Bồ Đào Nha lớn hơn tất cả những ngôi nhà khác tại Hội An với mặt trước để kinh doanh, mặt sau là nơi chứa hàng hóa và sinh hoạt [12; 157]. Do đó, người Bồ Đào Nha cũng chỉ sử dụng môi giới hay đại diện đứng ra để mua các loại hàng hóa cần thiết mà thôi.
Thế nhưng, sau giai đoạn buôn bán tương đối ngắn ngủi ở Hội An, đến nửa cuối thế kỷ XVII, cùng với sự xuất hiện của người Hà Lan, sự suy yếu của mạng lưới thương điếm Bồ Đào Nha trên toàn châu Á, hoạt động thương mại của Bồ Đào Nha ở Hội An cũng đi dần vào con đường suy tàn và chấm dứt.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Diffie, W. Baileys và Winius, D. George (1977), Foundations of the Portuguese Empire, 1415-1580, Mineapolis: University of Minnesota.
2. Đỗ Bang (1996), Phố cảng vùng Thuận Quảng (Hội An – Thanh Hà – Nước Mặn) thế kỷ XVII-XVIII, NXB Thuận Hóa, Huế.
3. Maybon, B. Charles (2016), Những người châu Âu ở nước An Nam, Nguyễn Thừa Hỷ dịch, NXB Thế giới, tp Hồ Chí Minh.
4. Borri, Christoforo (1999), Xứ Đàng Trong năm 1621, Dịch giả Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên và Nguyễn Nghị, NXB Thành phố Hồ Chí Minh.
5. Hall, G.E. Daniel (1997), Lịch sử Đông Nam Á, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6.
Lach, F. Donald và
Kley, J. Van. Edwin (1998),
Asia in the Making of Europe, Volume III: A Century of Advance, University of Chicago Press
7. Hoàng Thị Anh Đào (2017), Hoạt động thương mại – truyền giáo của Bồ Đào Nha và Pháp ở Việt Nam (thế kỷ XVI – XVIII), Đại học Khoa học Huế, Luận án tiến sĩ.
8. Pinto,
Mendes Fernão (2013),
The Travels of Mendes Pinto, University of Chicago Press.
9. Danvers,
Charles Frederick (1894),
The Portuguese in India: A.D. 1481-1571, W.H. Allen & Company.
10. Souza, B. George (2004), The Survival of Empire: Portuguese Trade and Society in China and the South China sea 1630 – 1754, Cambridge University press, London, 304 pp.
11.
Matsuda, Koichiro (2017
),
Japan and the Pacific, 1540–1920: Threat and Opportunity, Routledge
.12. Li, Qingxin (2006),
Maritime Silk Road, Translated by William W.Wang, China: Intercontinental Press.
13. Li, Tana (1999), Xứ Đàng Trong, Lịch sử Kinh tế – Xã hội Việt Nam thế kỷ XVII và XVIII, Nguyễn Nghị dịch, NXB Trẻ, Hồ Chí Minh.
14. Nguyễn Chí Trung (2010), Cư dân FaiFo – Hội An trong lịch sử, NXB Đà Nẵng, Đà Nẵng.