Ấn Quảng Nam Ký lục nội viện chi chương
Cũng theo Thực lục, năm 1602 chúa Tiên Nguyễn Hoàng cử thế tử Nguyễn Phúc Nguyên vào trấn thủ Quảng Nam. Khi trấn thủ Quảng Nam và khi lên ngôi chúa, Nguyễn Phúc Nguyên đã rất tích cực trong việc thiết lập mối quan hệ ngoại giao, mở rộng buôn bán với Nhật Bản qua việc viết nhiều bức thư gửi chính quyền và các hào thương Nhật Bản vào các năm 1601, 1603, 1605, 1610, 1611… Trong các bức thư này Nguyễn Phúc Nguyên xưng là Đại đô thống Thụy quốc công hoặc Thụy công và đóng dấu đỏ hình vuông, lòng khắc 6 chữ “Trấn thủ tướng quân chi ấn”. Ở con dấu không có 2 chữ Quảng Nam như các con dấu cùng loại về sau. Các bức thư nói trên hiện lưu giữ ở một số bảo tàng tại Nhật Bản và trong nước ta hiện vẫn chưa tìm thấy văn bản nào đóng dấu trấn thủ này.
Cùng với trấn thủ đứng đầu, bộ máy quản lý của dinh Quảng Nam thời các chúa Nguyễn được Lê Quý Đôn ghi chép trong Phủ biên tạp lục như sau “Đến như dinh Chiêm ở Quảng Nam thì có quan đóng giữ gọi là dinh Quảng Nam, ở xã Cần Hào (có đoạn dịch là Cần Húc), huyện Duy Xuyên, sở thuộc có ty Xá sai, câu kê 3 người, cai hợp 7 người, thủ hợp 10 người, lai viên 40 người, giữ việc từ tụng, văn án do 1 viên ký lục đứng đầu, lại có ty Tướng thần lại, số người cũng thế, giữ việc cấp lính các xã, cấp các vi tử làm ngụ lộc, thu phát tiền sai dư và thóc tô ruộng, do 1 viên cai bạ đứng đầu…”
Qua quá trình sưu tầm tư liệu Hán Nôm đã tìm thấy 1 số văn bản hành chính có đóng dấu 2 cơ quan này của Quảng Nam. Trong 1 văn bản năm Cảnh Hưng thứ 22 (1761) đóng 1 dấu vuông, lòng khắc 6 chữ triện xếp thành 3 hàng từ phải sang trái: Khâm sai Quảng Nam cai bạ (hoặc cai bộ). Đây là con dấu của quan cai bạ dinh Quảng Nam thời chúa Võ vương Nguyễn Phúc Khoát. Nội dung dấu ấn còn cho biết đây là quan Cai bộ nhưng là Khâm sai thay mặt chúa Nguyễn để xử lý công việc ở Quảng Nam. Đại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Pallus Của định nghĩa Khâm sai là “tước quan lớn lãnh mạng đi làm việc chi”.
Trong một văn bản khác cũng có niên đại Cảnh Hưng thứ 22 (1761), cuối dòng phê của quan sở tại đóng 1 dấu vuông lòng khắc 8 chữ triện xếp thành 4 hàng từ phải qua trái: Quảng Nam ký lục nội viện chi chương. Đây là ấn chương của quan ký lục, người đứng đầu ty Xá sai dinh Quảng Nam thời điểm năm 1761.
Một văn bản có niên đại Cảnh Hưng thứ 25 (1764) cuối dòng phê của quan sở tại đóng vuông, lòng khắc 8 chữ triện xếp thành 4 hàng từ phải qua trái: Quảng Nam cai bạ nội viện chi chương. Kích thước, cách bố trí và thư pháp giống y dấu ký lục ở trên, chỉ khác về chức vụ. Đây là dấu ấn của quan Cai bạ dinh Quảng Nam thời điểm năm 1764. So sánh con dấu của 2 vị quan Cai bạ năm 1761 và 1764 nhận thấy có sự khác nhau cả về kích thước, thư pháp. Con dấu đầu là của quan Cai bạ nhưng là Khâm sai của triều đình, con dấu sau không có chữ Khâm sai. Có thể đây là con dấu của 2 nhân vật khác nhau.
Ngoài ra trong 1 số tờ truyền của công đường dinh Quảng Nam năm Cảnh Hưng thứ 13 (1752) cuối trang có đóng dấu kiềm ấn hình bát giác kiểu hột xoài 2 bên lõm vào, lòng khắc 3 chữ từ trên xuống: Phủ chính ký. Đây là kiềm ấn của 1 vị quan thuộc dinh Quảng Nam. Tư liệu tìm được cho thấy các kiềm ấn thường không ghi chức tước mà chỉ ghi họ của vị quan kèm theo các chữ như Tín ký, Chánh ký.
Tuy ít ỏi nhưng những tư liệu trên giúp chúng ta biết được phần nào bộ máy chính quyền cấp dinh trấn ở Quảng Nam thời các chúa Nguyễn, và như đã nói ở phần đầu, dinh Quảng Nam thời các chúa Nguyễn có địa giới vào đến đèo Cù Mông, phía Bắc Phú Yên, ngày nay là phần đất các tỉnh, thành phố Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định. Do vậy, nếu có sự liên kết giữa các địa phương này thì công tác sưu tầm, tìm kiếm các tư liệu về Quảng Nam thời các chúa Nguyễn sẽ có triển vọng khả quan hơn.