Các vị nữ thần được tôn thờ ở Cù Lao Chàm

Chủ nhật - 14/03/2021 23:40
Việc thờ phụng các vị nữ thần vốn rất phổ biến trong xã hội Việt Nam trong lịch sử. Từ nhu cầu tín ngưỡng thờ nữ thần, các công trình kiến trúc, các hình thức nghi lễ thờ cúng, lễ hội, các hình thức sinh hoạt tín ngưỡng liên quan cũng được hình thành, phát triển, góp phần tạo nên tính đa dạng của văn hóa Việt Nam.
miếu Bà Mụ Tân Hiệp
Miếu Bà Mụ   Tân Hiệp  Ảnh: Trung tâm Quản lý Bảo tồn Di sản
 
Về nguồn gốc của tín ngưỡng thờ nữ thần, nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Hương cho rằng: “Để được bình yên trong cuộc sống, được an toàn trong lao động sản xuất, các cộng đồng cư dân đã tin tưởng vào sự hỗ trợ của các vị thần linh, trong đó có vai trò của các Nữ thần/Mẫu[1]. Vào cuối thế kỷ 19, trong thời kỳ nhà Nguyễn, Cù Lao Chàm có tên gọi phường Tân Hợp, thuộc tổng Thanh Châu, huyện Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam. Hiện nay, Cù Lao Chàm là xã Tân Hiệp, thuộc thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam, nằm cách khu phố cổ Hội An khoảng 18km về phía Đông, là vùng đất có lịch sử cư trú của con người khá lâu đời, đồng thời còn là nơi có cảnh sắc thiên nhiên đẹp với hệ sinh thái tự nhiên vô cùng phong phú. Trải qua thời gian, các thế hệ cư dân ở Cù Lao Chàm đã tạo dựng và để lại cho thế hệ ngày nay một kho tàng di sản văn hóa đa dạng. Trên địa phận Cù Lao Chàm hiện nay có 23 di tích tôn giáo – tín ngưỡng phân bố ở Hòn Lao, Hòn Tai và Hòn Dài, trong đó số lượng di tích tập trung nhiều nhất ở Hòn Lao với 20 di tích; cùng với một kho tàng văn hóa dân gian phong phú còn được lưu truyền, bảo lưu. Bên cạnh các loại hình di tích liên quan đến tín ngưỡng dân gian như thờ cá Ông, Âm Linh, Thành Hoàng, thờ tổ nghề như nghề Yến, nghề cá… còn có các di tích thờ nữ thần.
Quảng Nam xã chí ghi chép về các vị nữ thần được thờ phụng ở Cù Lao Chàm, gồm có: Thiên Y Chúa Ngọc, Đại Càn Quốc Gia Nam Hải Tứ Vị Thánh Nương, Ngũ Hành Tiên Nương. Những vị nữ thần này được triều đình nhà Nguyễn sắc phong để nhân dân phụng thờ. Bên cạnh đó còn có các vị nữ thần mang sắc thái dân gian được cư dân Cù Lao Chàm tôn thờ như: Bà Mụ, Bà Bạch (Bạch Thố Kim Tinh), Bà Mộc.
Trong lịch sử, một số tư liệu đã ghi chép về các miếu thờ nữ thần ở Cù Lao Chàm. Quốc sử quán triều Nguyễn mô tả về Cù Lao Chàm: “Cách huyện Diên Phước 68 dặm về phía Đông, ngất ngưỡng giữa biển gọi là đảo Ngọa Long, cũng gọi là hòn Cù Lao, có tên nữa là Tiêm Bút, tên cổ là Chiêm Bất Lao, làm trấn sơn cho cửa biển Đại Chiêm... Trên núi có nhiều đền thờ như đền thờ 3 vị Phục Ba Tướng quân, đền thờ Cao Các, đền thờ thần Bô Bô và các đền thờ thần: Ngọc Lân, Thành Hoàng, Chúa Lồi, Bạch Mã, Ngũ Hành…[2].
Thiên Y A Na Diễn Ngọc Phi nguyên là một vị nữ thần Champa, có tên gọi là Thánh Mẫu Pô Inư Nưgar. Trong quá trình cộng cư, người Việt đã tiếp thu, biến đổi nhằm phù hợp với phong tục của người Việt. Vị nữ thần này đã được các vua triều Nguyễn ban sắc phong: “Hoàng Huệ Phổ Tế Linh Cảm Diệu Thông Mặc Tướng Trang Huy Dực Bảo Trung Hưng Thiên - Y -A - Na Diễn Ngọc Phi thượng đẳng thần”.
Đại Càn Quốc Gia Nam Hải Tứ Vị Thánh Nương là vị nữ thần thường hiển linh cứu giúp những tàu thuyền gặp nạn trên biển, bảo vệ bình an cho người dân, có tên gọi dân gian là bà Đại Càn, danh hiệu được triều đình gia phong đầy đủ là: “Hàm Hoằng Quang Đại Chí Đức Phổ Bác Hiển Hóa Trang Huy Dực Bảo Trung Hưng Đại Càn Quốc Gia Nam Hải Tứ Vị Thánh Nương thượng đẳng thần”. Đây là vị thần giữ vị trí đứng đầu trong danh sách các vị thần được thờ tự và là vị chủ thần được thờ trang trọng nhất tại nhiều đình làng tại Hội An cũng như nhiều địa phương. Quảng Nam xã chí có ghi thông tin về sắc thần vị Đại Càn tại làng Tân Hiệp, trong tổng số sắc phong của làng là 20 thì có đến 5 sắc phong cho vị Đại Càn.
Ngũ Hành Tiên Nương là tên gọi chung cho năm vị nữ thần, bao gồm: Kim Đức Thánh Phi, Mộc Đức Thánh Phi, Thủy Đức Thánh Phi, Hỏa Đức Thánh Phi và Thổ Đức Thánh Phi. Dân gian gọi chung năm Bà là Bà Ngũ Hành, danh hiệu được triều đình nhà Nguyễn gia phong mỹ tự là: “Tư Hóa Mặc Vận Thuận Thành Hòa Tự Tư Nguyên Trang Huy Dực Bảo Trung Hưng thượng đẳng thần”. Quảng Nam xã chí có ghi lại các lần triều đình nhà Nguyễn sắc phong cho thần Ngũ Hành ở làng Tân Hiệp (Cù Lao Chàm) từ thời vua Tự Đức thứ 5 (1852) đến đời vua Khải Định thứ 9 (1924). Hiện nay, tại Cù Lao Chàm còn hiện diện 04 ngôi miếu thờ Ngũ Hành Tiên Nương (miếu Ngũ Hành Bãi Hương, miếu Hiệp Hòa, miếu Bà xóm trong, miếu Bà xóm giữa).
Bà Mụ là danh xưng dùng để gọi chung cho 15 vị gồm “Ba bà Chúa Sanh Thai” còn gọi là “Sanh Thai nương nương”“12 bà mụ” còn gọi là “thập nhị Hoa Bà” hay “Kim Hoa nương nương”. Có nhiều nguồn tài liệu nhắc đến sự tích Bà Mụ, trong tác phẩm Lược khảo về thần thoại Việt Nam tác giả Nguyễn Đổng Chi viết: “Sự tích của 12 vị nữ thần này hiện nay chúng ta chỉ còn biết một cách lờ mờ. Có thuyết nói đó là các thần giúp việc cho Ngọc Hoàng từ lúc ông ta có ý định sáng tạo ra loại người…”, hay Lê Quý Đôn trong tác phẩm Vân đài loại ngữ viết: “Tục nước ta, đẻ con được ba ngày, làm mâm cơm cúng Mụ. Đến hôm đầy tháng, hôm một trăm ngày, hôm đầy tuổi tôi, đều có làm cỗ cúng gia tiên, bày tiệc ăn mừng…[3].
Miếu Bà Mụ ở Cù Lao Chàm được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 19, có nhiều truyền thuyết liên quan đến di tích này cùng các tục lệ về cầu tự, cầu được bình an khi sinh nở hiện lưu truyền tại địa phương phần nào thể hiện sự quan trọng của di tích miếu Bà Mụ trong đời sống tinh thần của cư dân dân vùng đảo Cù Lao Chàm trước đây cũng như hiện nay.
Bên cạnh các công trình thuộc thiết chế văn hóa – tín ngưỡng làng xã, cộng đồng cư dân Việt sinh sống tại Cù Lao Chàm còn xây dựng một số công trình để thờ tự các vị thần liên quan đến nghề nghiệp, đất đai, khe suối, núi rừng, biển cả… theo quan niệm của mình. Miếu Bà Mộc tại rừng Cấm thuộc xóm Cấm được hình thành trên cơ sở đó. Ngôi miếu được cư dân địa phương xây dựng vào cuối thế kỷ 19.
Bạch Thố Kim Tinh, hiện nay chưa có tư liệu để xác định danh tính vị nữ thần này. Trong Quảng Nam xã chí ghi chép về các vị nữ thần được sắc thần của triều đình ở Cù Lao Chàm cũng không thấy nhắc đến. Qua tra cứu các vị nữ thần được triều đình sắc phong trong tập Quảng Nam xã chí đối với các địa phương khác trên địa bàn thành phố Hội An, chỉ thấy ở làng Cẩm Phô được triều đình sắc phong vị nữ thần Bạch Thố Kim Tinh này 2 lần vào ngày 18/3 năm Khải Định thứ 2 (năm 1917) tước phong: Trinh Uyển hạ đẳng thần và ngày 25/7 năm Khải Định thứ 9 (năm 1924) gia tặng mỹ hiệu: Trai Tịnh trung đẳng thần. Tại Xóm Cấm (nay thuộc thôn Bãi Ông) - Cù Lao Chàm hiện nay còn hiện diện ngôi miếu thờ Bạch Thố Kim Tinh, cư dân địa phương thường gọi là lăng Bà Bạch hay lăng Bà Lớn.
Tại thôn Bãi Làng có ngôi miếu thờ vị thần nữ, cư dân địa phương thường gọi là lăng Cô. Ngôi miếu có quy mô nhỏ, niên đại khoảng cuối thế kỷ 19. Xa xưa nơi này là nghĩa địa, những người làm nghề lưới sòng cùng dân xóm Đình đóng góp kinh phí xây dựng ngôi miếu để thờ vị nữ thần này. Về sau, do chiến tranh nhiều người trong đất liền đổ đến cư trú thành Xóm Mới nên miếu nằm giữa xóm.
Có thể nói, tín ngưỡng thờ nữ thần đã thấm sâu vào đời sống văn hóa tín ngưỡng của cộng đồng cư dân Cù Lao Chàm, phản ánh vai trò quan trọng của tín ngưỡng nữ thần trong đời sống tâm linh của con người nơi đây, đồng thời thông qua đó còn thể hiện sự giao thoa văn hóa của vùng đất Cù Lao Chàm trong tiến trình lịch sử, góp phần làm phong phú, đa dạng loại hình di sản văn hóa địa phương - Cù Lao Chàm nói riêng, Hội An nói chung.
 
 
 
[1] Nguyễn Xuân Hương (2011), Tín ngưỡng thờ nữ thần của người Việt ở xứ Quảng, Nxb Đà Nẵng, tr.12.
[2] Quốc sử quán triều Nguyễn (1997), Đại Nam Nhất thống Chí, tập 2, Nxb Thuận Hóa, tr.358-359.
[3] Phạm Phước Tịnh (2014), Về 12 Bà Mụ được thờ cúng ở Hội An, Đặc san Nghiên cứu lịch sử xứ Quảng, số 5, 2014.

Tác giả: Trần Phương

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

liên kết web
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây