Như vậy, Thanh Hà xưa có sông trong, sông ngoài chảy theo hướng cơ bản là Tây xuống Đông. Sông trong – sông Hội An, tục danh còn gọi là sông chợ Củi chảy từ Dinh Thanh Chiêm (của Dinh/Trấn/Tỉnh Quảng Nam) và /Tổng Phú Chiêm xuống, con sông này cũng là một phần của hạ lưu sông Thu Bồn, vùng hạ lưu rộng lớn này vốn được tiếp nhận, hội lưu từ ba nguồn sông lớn của Xứ Quảng (
gồm Thu Bồn, Vu Gia, Trường Giang) trước khi ra Cửa Đại, thông với biển Đông. Sông ngoài – sông Đế Võng, tục danh là sông Cổ Cò, tên chữ là Lộ Cảnh giang, sông này nối thông Cửa Đại - Hội An với Cửa Hàn – Đà Nẵng, nơi đây có đầm Trà Quế được xem là “vũng tàu Bắc” của Đô thị thương cảng Hội An (vũng tàu Nam là Đầm Trà Nhiêu). Nối thông giữa sông trong và sông ngoài theo hướng Bắc – Tây Bắc qua Nam – Đông Nam là hệ thống dòng chảy, nước rất mạnh vào mùa mưa, nhưng lại khô ráo vào mùa nắng, nhưng đã chia cắt Thanh Hà xưa thành rất nhiều dạng địa hình - địa mạo, thủy đạo khác nhau như: cồn – bàu - trảng - nỗng... Ở vào khoảng từ thế kỷ XVII trở về trước, trên đất Thanh Hà còn có một dòng chảy – con sông lớn chảy qua theo trục Tây – Đông, có dân cư sinh sống dọc theo bờ của con sông này vào thời kỳ Tiền – Sơ sử đến Champa và từ thời kỳ đầu của cư dân Việt, hình thành vùng đất dân cư từ ấp An Bang xuống Thanh Chiếm, Hậu Xá. Nay dấu vết của con sông này là Rọc gốm, là hệ thống ruộng đồng, bên cạnh những nỗng/cồn/trảng cát lớn ôm dọc theo Rọc gốm và con sông Thanh Hà hiện nay ngăn cách giữa vùng đất cũ/cựu An Bang, Thanh Chiếm với Nam Diêu, Bộc Thủy.
Thanh Hà nằm trong vùng vị trí địa lý chung một nền khí tượng thủy văn ở Hội An. Theo kết quả nghiên cứu của Đoàn địa chất 206 (
tại Hội An), thì vùng này có 2 mùa rõ rệt: mùa khô từ tháng 2 đến tháng 8, nhiệt độ tương đối đồng đều từ 28 đến trên 30
oC; mùa mưa kéo dài từ tháng 9, tháng 10 đến tháng giêng năm sau và với gió mùa Đông Bắc kéo dài từ tháng 11 đến tháng 2 năm sau; gió mùa hè theo hướng Đông, Đông Nam thường xuất hiện bão hoặc áp thấp nhiệt đới, nhiệt độ trung bình 23 – 24
oC, thấp tuyệt đối khoảng 15 – 20
0C. Lượng mưa trung bình hàng năm khoảng 2.069mm, phần lớn tập trung vào mùa đông (
mùa mưa), tháng có mưa nhiều nhất là tháng 9,10. Mùa khô từ tháng 2 – 8, lượng mưa trung bình dưới 100mm. Về địa hình – địa mạo Thanh Hà xưa chủ yếu nằm trong vùng trầm tích sông và hỗn hợp sông - biển - đầm lầy, mặt cắt của trầm tích gồm: phần dưới là cát hạt trung đến thô, lẫn ít bột sét, màu xám; phần giữa gồm cát hạt nhỏ đến trung, lẫn ít bột sét lẫn cát màu xám đen, xám vàng; phần trên gồm chủ yếu là cát lẫn ít bột sét, giàu mùn thực vật, thân cây hóa than yếu và di tích động vật nước lợ. Đặc điểm địa mạo Thanh Hà nằm trong phần lục địa ven biển với 2 kiểu cấu trúc: cấu trúc hệ đê cát - đầm phá và địa hình thấp vùng cửa sông. Nhìn chung, trong địa bàn Hội An, Thanh Hà nằm trong vùng cồn cát, có độ dốc thoải trung bình 0,015
0 từ hương Tây Bắc xuống Đông Nam lại chủ yếu có nguồn gốc sông - biển, bề mặt tích tụ cao 5 – 7m, được hình thành vào thời kỳ biển tiến Holoxen trung, đạt tới mức cực đại, định khoảng 4.000 – 6.000 năm trước đây. Nhìn chung, địa hình ở đây bị chia cắt bởi cồn, bàu, bãi/trảng/nỗng cát, lại vừa có địa hình ven sông và sông, lạch... Đặc điểm về địa hình, thủy đạo này đã tạo nên địa bàn cư trú của dân làng/xã Thanh Hà xưa khá đa dạng và chia cắt ở từng địa bàn khác nhau. Có nhóm cư dân sống trên cồn (
sông), nhóm khác sống ven bờ sông, hoặc trên những bãi, cồn cát và cả ven biển. Vì vậy, làng Thanh Hà thuở ban đầu khá đa dạng phong phú trong hoạt động kinh tế và sinh hoạt văn hóa của dân làng Thanh Hà theo từng địa bàn cư trú trong lịch sử hình thành và phát triển.
Kết quả nghiên cứu khoa học tại di tích khảo cổ học dọc theo khu vực cồn cát, ôm sát theo dòng chảy cổ - Rọc gồm vùng đất Thanh Hà nói riêng và ở Hội An nói chung, cho chúng ta biết trên mảnh đất Thanh Hà cách ngày nay hơn 2.000 năm đã có cư dân sinh sống. Đây là lớp cư dân thuộc phức hệ văn hóa Sa Huỳnh ở miền Trung Việt Nam. Họ thuộc chủng Mê-la-nê-diêng, trong nhóm tộc người Mã Lai – Đa Đảo ở Đông Nam Á. Lớp cư dân này đã biết trồng lúa nước, chăn nuôi gia súc, gia cầm; biết khai thác sản vật trên sông, biển; biết dệt vải, rèn sắt làm công cụ sản xuất, biết làm đồ trang sức…; xã hội đã có sự phân hóa và có sự giao lưu kinh tế văn hóa trong khu vực với vai trò là
cảng thị sơ khai hay tiền cảng thị (
Embryonary port town or Preport – town) (1).
Tiếp theo thời kỳ cư dân văn hóa Sa Huỳnh, thông qua nhiều tư liệu thư tịch, lịch sử, di tích, dấu tích kiến trúc, khảo cổ các nhà khoa học đã cung cấp cho chúng ta nhiều thông tin quý, nhận thức về mảnh đất Hội An nói chung của lớp cư dân thời vương quốc Champa từ thế kỷ II sau công nguyên đến thế kỷ XV. Đặc biệt, trên mảnh đất Thanh Hà, thông qua kết quả khai quật, đào thám sát tại di chỉ khảo cổ học Hậu Xá 1, Đồng Nà, Thanh Chiếm, Trảng Sỏi ... các nhà khoa học đã khẳng định đây là nơi cư trú, giao lưu buôn bán bên thềm sông cổ của cư dân Sa Huỳnh được tiếp nối bởi cư dân Champa trên mảnh đất Thanh Hà. Tập trung nhất là ở dọc theo Rọc Gốm và vùng ven sông thuộc Đồng Nà, Bến Trễ, và ven sông, trên đầm Trà Quế (2) .
Bước sang thời kỳ Đại Việt, bắt đầu từ thế kỷ XIV, qua nhiều nguồn sử liệu cho biết sau sự kiện Huyền Trân Công chúa (
Nhà Trần) năm 1306, Thanh Hà và phần lớn khu vực Hội An đã là một phần lãnh thổ của nhà nước Đại Việt. Nhưng trên thực tế nơi đây vẫn đang là vùng tranh chấp quyết liệt bởi sự phản kháng của người Champa (3). Tiếp đến, năm Nhâm Ngọ 1402 (
tức vào đời Hồ Hán Thương, năm Thiệu Thành thứ 2), vào tháng 3, vua cho “
sửa đường sá từ thành Tây Đô đến Hóa Châu, dọc đường đặt phố xá để truyền thị, gọi là đường Thiên Lý ”. Rồi Thái thượng hoàng Hồ Quý Ly “
tháng 7, cử đại binh đánh Chiêm Thành. Vua nước ấy là Ba - Đích - Lại dâng đất Chiêm động và Cổ Lũy động. Quý Ly nhận chia làm bốn châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa, đặt An phủ sứ bộ Thăng Hoa để cai trị... Đem những dân không ruộng mà có của dời đến ở Thăng Hoa biên làm quân ngũ, khuyên dân nộp trâu thì cho quan tước để lấy trâu cấp cho dân di cư” (4) và “
Người đến ở châu nào phải khắc tên châu ấy trên cánh tay hàm ý giữ đất đến cùng” (5). Nhưng sự nghiệp của nhà Hồ sớm chấm dứt, không thể làm được gì hơn ngoài việc đưa dân đến đây sinh sống, bởi vào cuối năm 1406, quân Minh tràn sang xâm lược nước ta, cuộc chiến tranh vệ quốc do nhà Hồ lãnh đạo nhanh chóng thất bại, cho nên từ năm 1407 đến 1427 quân Minh thiết lập chính quyền đô hộ trên toàn cõi nước ta. Trong khi đó quân nhà Minh vì nhiều lý do đã không đủ sức cai quản vùng đất mới chiếm được của nhà Hồ từ phía Nam đèo Hải Vân ngày nay trở vào nên sử quan triều Nguyễn chép rằng “
trong thời kỳ thuộc Minh đặt Thăng Hoa phủ... đồ tịch chỉ biên hư danh đó thôi, còn đất đai thì người Chiêm Thành chiếm giữ. Đến đầu thời Lê mới đặt làm đất Kymi (đất ràng buộc)” (6). Như vậy, ở thời kỳ này cùng với khu vực Hội An, Thanh Hà là một mảnh đất tranh chấp, quyền quản lý về mặt nhà nước, khi thì thuộc Minh, Đại Việt, khi thuộc Champa. Người Việt cùng chung sống với người Chăm chắc hẳn phải khôn khéo, dũng mãnh và tế nhị để có được cuộc sống ổn định làm ăn.
Đến năm 1471, vua Lê Thánh Tông (
niên hiệu Hồng Đức) đã đánh Chiêm Thành lấy lại đất này đặt làm Thừa Tuyên Quảng Nam và vua đã ban dụ rằng “
Đại Chiêm và Cổ Lũy trước là đất của ta, gần đây bị mất về nước Chiêm Thành, nay lấy lại được hết, sai các người trấn thủ, ai dám không theo lệnh thì chém trước tâu sau.
Lại sai Đỗ Tử Quý làm Đồng Tri châu coi việc quân dân Đại Chiêm, Lê Ỷ Đà làm Tri châu coi việc quân dân Cổ Lũy. Người Chiêm ai dám làm loạn thì cho chém trước tâu sau” (7). Đây là thời kỳ phát triển thịnh vượng của chế độ phong kiến Việt Nam với vị vua Lê Thánh Tông. Thời kỳ nhà nước Đại Việt đủ sức lực để bảo vệ ổn định vùng đất này với việc xây dựng chính quyền phong kiến ở đây. Và cũng rất cần thiết phải tổ chức hành chính xuống tận các làng - xã - thôn - xóm để làm cơ sở cho chính quyền trung ương và địa phương. Đó là cơ hội để các làng xã ở khu vực Hội An nói chung và
làng Thanh Hà nói riêng ra đời.
Lúc này, cùng với các làng khác ở khu vực Hội An như Võng Nhi, Cẩm Phô, Hoài Phô, Cổ Trai... Làng Thanh Hà đã được hình thành. Xem nội dung trên gia phả tộc Nguyễn viết ở làng Thanh Hà (
nay là phường Thanh Hà) được biết “
Ông tổ từ Thanh Hóa vào Nam Thành... sáng lập ra đình làng Thanh Hà” . Không rõ năm nào nhưng qua việc nghiên cứu hệ phả thì chúng tôi được biết, từ ông tổ này đến nay đã lưu truyền được hơn 18 đời. Cũng trên làng Thanh Hà này chúng tôi đọc được gia phả của tộc Võ Văn, qua nội dung được biết “
Ông tổ từ Thanh Hóa vào chiếm đất Thanh Hà” đến nay lưu truyền được 18 đời. Cùng với các tộc họ khác: Nguyễn Văn, Nguyễn Đức, nguyễn Kim, Ngụy Như, Bùi Phước, Võ Đình,... qua ghi chép trong gia phả cũng đều cho biết Thủy tổ từ Thanh Hóa vào khai khẩn đất Thanh Hà tính cho đến nay cũng đã gần 20 đời. Theo cách tính ước đoán dân tộc học thì một đời khoảng 25 - 30 năm thì đình làng Thanh Hà đã được lập muộn nhất vào đầu thế kỷ thứ 16. Để có đình trước hết phải có dân, có việc lập làng trước, đó là một quá trình lâu dài. Có lẽ làng này phải được lập vào thế kỷ xv.
Về tên gọi Thanh Hà theo ngữ/nghĩa Hán – Nôm, Thanh: 清 , nghĩa là ? ; Hà: 霞 , nghĩa là ?. Đến nay, còn nhiều cách lý giải khác nhau dựa trên ngữ/nghĩa của hai chữ này, tuy nhiên tựu trung lại đều xuất phát từ sự lưu dấu gốc tích về quê hương Thanh Hóa của các tộc họ tiền hiền ở đây (cùng với đất tổ của Chúa Nguyễn) và cùng với yếu tố cảnh sắc sông nước, mây trời tuyệt đẹp nơi đây mà hai chữ Thanh Hà được các bậc tiền bối làng này từ xa xưa đã gửi gắm, đặt tên với hàm ý sâu sắc như vậy.
Các lớp dân cư Thanh Hà ngày một đông hơn cùng với việc di dân lập làng ở Hội An - xứ Quảng, tiếp tục được diễn ra mạnh mẽ gắn với kế sách tạo nghiệp lâu dài của các chúa Nguyễn, với câu sấm truyền “
Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân” bắt đầu từ cuối thế kỷ XVI. Năm 1558 Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa rồi đến năm 1570 kiêm lãnh trấn Quảng Nam và rồi tháng 7 năm Nhâm Dần - 1602 cho lập Trấn Dinh Quảng Nam vì xem: chỗ này là đất yết hầu của miền Thuận - Quảng... đồng thời sai công tử thứ sáu là Nguyễn Phước Nguyên trấn giữ, sau đó vào năm 1604 chúa Nguyễn Hoàng đã cho chia đặt lại hệ thống đơn vị hành chính của Thuận Quảng, tách huyện Điện Bàn của phủ Triệu Phong ra để lập phủ Điện Bàn. Vào thời điểm này làng/xã Thanh Hà thuộc huyện Diên Phước/Diên Khánh, phủ Điện Bàn của Trấn Quảng Nam. Như đã trình bày trước, làng Thanh Hà được lập khá sớm. Đến đây chắc là trong đợt di dân này đã tiếp nhận thêm nhiều tộc họ, nhóm cư dân khác có thế lực góp sức cùng mở mang xây dựng Thanh Hà phát triển lớn mạnh.
Sau Cách mạng Tháng 8, vào ngày 03/9/1945 Tỉnh ủy Quảng Nam quyết định thành lập thị xã Hội An, làng/xã Thanh Hà thuộc thị xã Hội An. Năm 1946, Ủy ban hành chánh thị xã chia Hội An thành 8 khu (Hường Hiệu, Châu Thượng Văn, Kiến Trúc, Lương Như Bích, Nguyễn Bính, Thanh Hiệp, Tuy Nhạc, Tân Hiệp): Thanh Hà thuộc khu Hường Hiệu. Cuối năm 1949, chính quyền kháng chiến thị xã chia địa giới Hội An thành 4 khu: Hội Điền, Hội Hà, Hội Hải, Hội Thành. Thanh Hà thuộc khu Hội Hà; Tháng 3/1951, Thị ủy Hội An chia lại địa giới một lần nữa để phù hợp với tình hình mới, thị xã gồm 4 khu: Đông, Tây, Nam, Bắc. Thanh Hà thuộc Khu Tây. Tháng 7/1956, chính quyền Sài Gòn đổi xã hiệu của các xã, chữ đầu tên gọi của các xã là Cẩm (
lấy từ chữ Cẩm của tên làng Cẩm Phô), lúc này các xã ở Hội An thuộc Khu hành chính Cẩm Phô gồm: Cẩm Hải, Cẩm Hà, Cẩm An, Cẩm Châu, Cẩm Thanh, Cẩm Nam, Cẩm Kim, Hội An và Xuyên Long. Năm 2000 Thanh Hà chia/tách thành phường Thanh Hà và xã Cẩm Hà cho đến nay. Phường Thanh Hà: có diện tích 6,156km
2, dân số 11.839 người; Xã Cẩm Hà: có diện tích 7.040km
2 dân số 7.949 người (8).
* Chú thích và tài liệu tham khảo
(1) Các điểm di tích khảo cổ học về cư dân Văn hóa Sa Huỳnh: An Bang, Thanh Chiếm, Hậu Xá 1, Hậu Xá 2 ở Thanh Hà cho biết đây là những nơi chôn cất quan tài gốm (mộ chum). Theo các nhà khảo cổ học, người chết được hỏa táng và chôn trong những quan tài gốm/mộ chum này và người ta chôn theo đồ gốm, đồ trang sức, công cụ, vũ khí. Nhiều đồ gốm được tìm thấy bên trong và quanh bên ngoài mộ chum. Đó là những đồ dùng hàng ngày như nồi, bát, bình, đèn,... hoặc những đồ minh khí (đồ gốm có kích thước nhỏ hơn đồ dùng thật). Đồ trang sức rất phong phú về loại hình, số lượng, gồm có: khuyên tai (3 mấu, vành khăn), vòng đeo tay, hạt chuỗi... Chất liệu đá (hồng mã não, Nephrite, Crystal, Agate, phiến sét), thủy tinh, kim loại vàng, chì, đồng... Đặc biệt có nhiều chuỗi hạt vằng thủy tinh, đá nhỏ li ti thể hiện công nghệ chế tác và kỹ thuật rất điêu luyện tinh vi. Đồ sắt có khá nhiều về số lượng với các loại hình vũ khí: Qua, dao găm, giáo, mác, dao, mũi nhọn...; Công cụ sản xuất: Rựa, dao quắm, rìu, đục, thuổng, cuốc, dao,... Đáng chú ý ở đây, nhiều đồ sắt cán cầm còn dấu vết vải bọc, bao gỗ. Đặc biệt các hiện vật này đều cho thấy sự ảnh hưởng, giao lưu với văn hóa Hán (Trung Quốc), Văn hóa Đông Sơn, Óc Eo (ở phía Bắc và Nam, Việt Nam), và cả vùng Nam, Đông Nam Á.
(2) Qua các lần khai quật, đào thám sát khảo cổ, hiện vật phát hiện được tại các di tích này phổ biến là gốm gia dụng, vật dụng, gạch, ngói ống với chất liệu gốm hơi mịn, đồ án trang trí chủ yếu hoa văn ô vuông. Địa tầng thể hiện rất rõ sự chuyển tiếp từ văn hóa Sa Huỳnh lên Champa. Đặc biệt tại di tích Trảng Sỏi, với mật độ phát hiện hiện vât.gốm bán sứ, sứ có nguồn gốc từ Việt Nam, Trung Quốc, Islam, Chăm...niên đại từ thế kỷ III – IV đến XIII – XIV đã thể hiện rõ một điểm tụ cư, buôn bán sầm uất trên sông vào thời kỳ Chămpa Trên đất Thanh Hà hiện còn khá nhiều giếng cổ tương truyền có từ thời Chàm hoặc do người Việt học theo cách của người Chàm xây dựng từ rất lâu rồi. Hay còn nhiều phiến đá trong kiến trúc tín ngưỡng của người Chàm, có trang trí hoa văn đẹp hiện còn lưu giữ trong các chùa, miếu ở Thanh Hà.
(3) Do người dân Chăm bất bình sự việc hôn nhân sính lễ của công chúa Huyền Trân với vua Chàm (Chế Mân) và hơn nữa, chỉ một năm sau vua Chàm - Chế Mân chết, vua Trần Anh Tông đã sai Trần Khắc Chung dùng kế giải thoát được công chúa Huyền Trân khỏi cảnh phải tự thiêu, để chết cùng vua Chàm (Chế Mân) theo phong tục người Chàm nên dân Chàm liên tiếp nổi dậy chống lại và biến nơi đây thành vùng tranh chấp ác liệt. Nhất là, thời kỳ vua Chàm - Chế Bồng Nga, vùng tranh chấp còn kéo dài đến Thanh Hóa, Nghệ An và vị vua Chàm này đã từng đánh ra Thăng Long - Hà Nội vào các năm 1371, 1378, 1383, có lần đã buộc vua tôi nhà Trần phải tạm lui về Hải Dương. Trước những cơn “vùng vẫy” này của người Chàm vào cuối thế kỷ XIV. Chính từ tình hình trên, nhất là đất này lại quá mới, quá xa tầm kiểm soát của nhà Trần nên về thực tế ở đây vẫn do dân Chàm sinh sống, quản lý.
(4) Lê Qúi Đôn (1977), Phủ biên tạp lục, Hà Nội, Nxb KHXH, tr 23, 24.
(5) Phan Khoang (2001), Việt sử xứ Đàng Trong, Nxb Văn học, tr 88.
(6) Quốc Sử Quán Triều Nguyễn (1964), Đại Nam nhất thống chí, tỉnh Quảng Nam, bản dịch: Nguyễn Tạo, Sài Gòn, tr.104.
(7) Lê Qúi Đôn (1977), Phủ biên tạp lục, sđd, tr 33.
(8) Niên giám thống kê Hội An năm 2017.