Sau sự kiện Huyền Trân Công chúa năm 1306, khu vực Hội An đã là một phần lãnh thổ của nhà nước Đại Việt. Nhưng trên thực tế, do người dân Chăm bất bình sự việc hôn nhân sính lễ này và hơn nữa, chỉ một năm sau vua Chàm - Chế Mân chết, vua Trần Anh Tông đã sai Trần Khắc Chung dùng kế giải thoát được công chúa Huyền Trân khỏi cảnh phải tự thiêu, để chết cùng vua Chế Mân theo phong tục Chàm nên dân Chàm liên tiếp nổi dậy chống lại và biến nơi đây thành vùng tranh chấp ác liệt, nhất là thời kỳ vua Chàm - Chế Bồng Nga, vùng tranh chấp còn kéo dài đến Thanh Hóa, Nghệ An và vị vua Chàm này đã từng đánh ra Thăng Long - Hà Nội vào các năm 1371, 1378, 1383, có lần đã buộc vua tôi nhà Trần phải tạm lui về Hải Dương trước những cơn vùng vẫy này của người Chàm vào cuối thế kỷ XIV. Chính từ tình hình trên, nhất là đất này lại quá mới, quá xa tầm kiểm soát của nhà Trần nên về thực tế ở đây vẫn do dân Chàm sinh sống, quản lý.
Tiếp đến năm Nhâm Ngọ 1402 (tức vào đời Hồ Hán Thương năm Thiệu Thành thứ 2), vào tháng 3, vua cho “sửa đường sá từ thành Tây Đô đến Hóa Châu, dọc đường đặt phố xá để truyền thị, gọi là đường Thiên Lý”. Rồi Thái thượng Hoàng Hồ Quý Ly “tháng 7, cử đại binh đánh Chiêm Thành. Vua nước ấy là Ba - Đích - Lại dâng đất Chiêm động và Cổ Lũy động. Quý Ly nhận chia làm bốn châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa, đặt An phủ sứ bộ Thăng Hoa để cai trị... Đem những dân không ruộng mà có của dời đến ở Thăng Hoa biên làm quân ngũ, khuyên dân nộp trâu thì cho quan tước để lấy trâu cấp cho dân di cư”(1) và “Người đến ở châu nào phải khắc tên châu ấy trên cánh tay hàm ý giữ đất đến cùng”(2).
Khác với sự kiện năm 1306, lần này sau khi nhượng đất người Chàm rút đi rất nhiều(3) và theo lệnh của nhà Hồ người Việt đã được di dân vào đây để lập nghiệp. Nhưng sự nghiệp của nhà Hồ sớm chấm dứt, không thể làm được gì hơn ngoài việc đưa dân đến đây sinh sống, bởi vào cuối năm 1406, quân Minh tràn sang xâm lược nước ta, cuộc chiến tranh vệ quốc do nhà Hồ lãnh đạo nhanh chóng thất bại, cho nên từ năm 1407 đến 1427 quân Minh thiết lập chính quyền đô hộ trên toàn cõi nước ta. Trong khi đó quân nhà Minh vì nhiều lý do đã không đủ sức cai quản vùng đất mới chiếm được của nhà Hồ từ phía Nam đèo Hải Vân ngày nay trở vào nên “trong thời kỳ thuộc Minh đặt Thăng Hoa phủ... đồ tịch chỉ biên hư danh đó thôi, còn đất đai thì người Chiêm Thành chiếm giữ. Đến đầu thời Lê mới đặt làm đất Kymi (đất ràng buộc)”(4).
Như vậy, ở thời kỳ này cùng với phủ Thăng Hoa, Hội An là một mảnh đất tranh chấp quyền quản lý về mặt nhà nước, khi thì thuộc Minh, Đại Việt khi thuộc Chàm. Người Việt cùng chung sống với người Chàm chắc hẳn phải khôn khéo, dũng mãnh và tế nhị để có được cuộc sống ổn định làm ăn. Do đó, chưa thể có được các làng xã người Việt công khai ra đời, có chăng mới chỉ đặt nền móng cơ sở cho dịp tốt sau này được hình thành.
Thực tế phải chờ đến năm 1471 đời Lê Thánh Tông (niên hiệu Hồng Đức) đã đánh Chiêm Thành lấy lại đất này đặt làm Thừa Tuyên Quảng Nam và vua đã ban dụ rằng “Đại Chiêm và Cổ Lũy trước là đất của ta, gần đây bị mất về nước Chiêm Thành, nay lấy lại được hết, sai các người trấn thủ, ai dám không theo lệnh thì chém trước tâu sau. Lại sai Đỗ Tử Quý làm Đồng trị châu coi việc quân dân Đại Chiêm, Lê Ý Đà làm Tri châu coi việc quân dân Cổ Lũy. Người Chiêm ai dám làm loạn thì cho chém trước tâu sau”(5).
Trước hết, như chúng ta đã biết đây là thời kỳ phát triển thịnh vượng của chế độ phong kiến Việt Nam với vị vua Lê Thánh Tông. Thời kỳ nhà nước Đại Việt đủ sức lực để bảo vệ ổn định vùng đất này với việc xây dựng chính quyền phong kiến ở đây. Và cũng rất cần thiết phải tổ chức hành chính xuống tận các làng - xã - thôn - xóm để làm cơ sở cho chính quyền trung ương và địa phương. Đó là cơ hội để các làng xã ở khu vực Hội An nói riêng, ở Quảng Nam nói chung ra đời. Việc di dân lập làng ở Hội An- xứ Quảng, Đàng Trong tiếp tục được diễn ra mạnh mẽ gắn với kế sách tạo nghiệp lâu dài của các chúa Nguyễn, với câu sấm truyền “Hoành Sơn nhất Đái, Vạn đại dung thân” bắt đầu từ cuối thế kỷ XVI. Năm 1558 Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa rồi đến năm 1570 kiêm lãnh trấn Quảng Nam (6) và rồi tháng 7 năm Nhâm Dần - 1602 cho lập Trấn Dinh Quảng Nam vì xem: chỗ này là đất yết hầu của miền Thuận - Quảng... đồng thời sai công tử thứ sáu là Nguyễn Phước Nguyên trấn giữ (7), sau đó vào năm 1604 chúa Nguyễn Hoàng đã cho chia đặt lại hệ thống đơn vị hành chính của Thuận Quảng, tách huyện Điện Bàn của phủ Triệu Phong ra để lập phủ Điện Bàn (8).
Cư dân Đại Việt di cư vào đây, về nguồn gốc có một số ít ở đồng bằng Bắc Bộ còn chủ yếu ở Bắc Trung Bộ cụ thể là Thanh Hóa - Nghệ An - Hà Tĩnh. Trong đó có một số đã di chuyển vào Thuận Hóa hoặc một số nơi khác ở Quảng Nam sau đó tiếp tục di chuyển đến Hội An.
Những sự kiện nêu trên đã mở ra cho xứ Quảng nói chung và Hội An nói riêng một thời vận mới, phát triển mạnh mẽ cả về số lượng dân cư, tổ chức hành chính và cả về kinh tế - văn hóa. Các chúa Nguyễn không chỉ đặt niềm tin vào những người cùng họ hàng thân thích hoặc đồng hương Thanh Hóa mà còn tìm cách chiêu dụ nhân dân lưu tán đến với mình, bất cứ những ai dám rời bỏ đất cai quản của “Họ Trịnh” đều được các chúa Nguyễn ân cần tiếp nhận. Vì thế lực lượng xã hội ủng hộ họ Nguyễn ngày một đông, dẫn đến làn sóng di cư mạnh mẽ đến xứ Quảng vào cuối thế kỷ XVI trở đi, mà qua tư liệu thực địa ở Hội An đã minh chứng rất rõ.
Đàng Trong nói chung, xứ Quảng, Hội An nói riêng, vốn là một vùng đất trù phú, giàu có về các loại nông - lâm - thủy - hải sản... Do đó, cộng đồng cư dân Hội An, ngoài việc kế thừa những gì vốn có ở cố hương trước khi đến đây, họ còn tiếp thu hoặc điều chỉnh để hình thành một số nghề thủ công và các nghề khai thác, chế biến khác... nhằm đáp ứng cho nhu cầu cuộc sống của họ. Tuy nhiên, ban đầu, về cơ bản, cũng như ở người Việt nói chung, ngành nghề thủ công hoặc các nghề khai thác, chế biến... đều được khai sinh từ nông nghiệp, người thợ vốn là người nông dân. Hàng loạt ngành nghề ra đời đều nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt tự cung, tự cấp của mình. Và như vậy, hoạt động các ngành nghề đều với tư cách là hỗ trợ nông nghiệp, nhằm đáp ứng nhu cầu người nông dân trong sinh hoạt hàng ngày. Tính chất, cơ cấu của các ngành nghề về căn bản vẫn là mô hình sản xuất mang tính gia đình, công cụ dùng trong nghề nghiệp rất đơn giản, chủ yếu sử dụng sức người, sự bền chí và khéo tay. Thậm chí phần lớn hoạt động thường sản xuất theo kiểu nông nhàn, lực lượng lao động không chuyên nghiệp hóa đến mức tách hẳn khỏi nông nghiệp và trong khi sản xuất mọi thành viên gia đình đều có thể tham gia theo khả năng của mình.
Nhưng, vào đầu thế kỷ XVII, Hội An với vai trò là trung tâm trung chuyển mậu dịch, giao thương trong nước và cả khu vực, với sự nhập cư mạnh mẽ của thương nhân các nước Trung Hoa, Nhật Bản, sự giao lưu buôn bán của thương nhân các nước Đông Nam Á và phương Tây... trên cơ sở kế thừa thương cảng từ thời vương quốc Champa, nơi đây tiếp tục phát triển cực thịnh trong vai trò là một Đô thị thương cảng quốc tế nổi tiếng suốt gần 3 thế kỷ XVII, XVIII, XIX. Và đây chính là cơ may phát triển cho các ngành nghề thủ công và khai thác chế biến nông lâm - thủy hải sản... ở Hội An, với nhiều ngành nghề nhưng hết sức đa dạng, phong phú. Hơn nữa các ngành nghề này không chỉ đáp ứng cho nhu cầu của địa phương mà sản phẩm của họ còn đáp ứng cho nhu cầu dịch vụ của một cảng thị quốc tế đồng thời đã thoát ra khỏi ranh giới bó hẹp của một làng nông để trở thành hàng hóa xuất khẩu, cung cấp cho nhu cầu sinh hoạt trên một địa bàn dân cư rộng lớn hơn ở trong nước, trong khu vực. Các ngành nghề này ở Hội An nằm rải rác khắp nơi gồm có:
- Nghề rèn: Nằm rải rác ở các điểm giao thông liên làng - xã, thôn - ấp.
- Nghề thau - thiếc: Tập trung ở làng Mậu Tài (nay ở phường Sơn Phong).
- Nghề làm gương lược (hàng xén): Tập trung ở Xuân Mỹ (nguyên là phường trực lệ - nay ở Thanh Hà).
- Nghề đan lát, làm nhà tre/ dừa, làm lồng đèn, liễn đối (bằng tre, gỗ),...: Tập trung ở các làng An Mỹ, Sơn Phô, Thanh Hà, Thanh Châu,...
- Nghề dệt vải, dệt chiếu, thêu: Tập trung ở các làng Cẩm Phô, Kim Bồng, Thanh Châu,...
- Nghề làm đường, làm dầu phụng, dầu mè: Ở An Mỹ, Thanh Châu, Sơn Phô, Thanh Hà, Kim Bồng.
- Nghề muối cà, muối mắm, làm nước mắm: Ở An Bàng, Phước Trạch, Thanh Châu, Cẩm Phô, Thanh Hà...
- Nghề nung vôi: Tập trung ở các điểm ven sông của làng Thanh Hà, Sơn Phô, Thanh Nam...
- Nghề làm thuốc Bắc, làm vàng mã - lịch, thợ kim hoàn: tập trung ở làng Minh Hương, Hội An.
- Nghề chế biến thực phẩm (tương ớt, chao, trứng vịt muối, xì dầu...), chế biến - đóng gói (cau, chè, trầu, quế...): tập trung ở các làng Minh Hương, Hội An, Cẩm Phô,...
- Nghề buôn ghe bầu của một số cư dân các làng ven sông chính như Thanh Châu, Cẩm Phô, Kim Bồng, Thanh Hà,...
- Nghề nề/ thợ hồ - xây dựng tập trung ở các làng Cẩm Phô, Kim Bồng.
Tuy nhiên, các nghề thủ công, khai thác có quy mô lớn, tập trung, thu hút nhiều lao động và sản phẩm có giá trị cao, nổi tiếng đáng kể ở Hội An đó là: Nghề mộc ở Kim Bồng, nghề gốm ở Thanh Hà và nghề yến ở Thanh Châu.
Có thể nói, yếu tố chủ đạo về kết cấu kinh tế của các làng/xã ở Hội An xưa phổ biến vẫn là nghề nông thường kết hợp với nhiều nghề phụ: Như đánh cá ở ven sông, ao, đầm, biển hoặc chăn nuôi gia súc, gia cầm hoặc thủ công (đan lát, rèn, làm nghề gốm, dệt, chế biến nông sản,...), buôn bán... Tiến hơn một bước có sự hình thành của làng buôn gắn với đô thị thương cảng bằng các nghề thủ công - chế biến, nông, lâm, hải sản hoặc làng thuần ngư nghiệp - nghề biển. Phải chăng, xuất phát từ điều kiện đặc thù của địa bàn cư trú, nguồn gốc dân cư và nhiều yếu tố lịch sử - xã hội khác nhau mà trên cơ sở nghề nông, các nghề truyền thống khác ở Hội An đã được hình thành một cách thích ứng, rất đa dạng, phong phú. Nhìn trên phạm vi tổng thể của từng làng/xã và của cả khu vực Hội An vừa có sự chuyên ngành, chuyên nghề, lại vừa có sự đan xen đa ngành, đa nghề. Chính vì thế khi nghiên cứu về gốc độ dân tộc học, chúng ta có thể thấy rất rõ vai trò của các xóm - phổ - vạn - phe/giáp... nghề trong không gian văn hóa làng/xã ở Hội An. Đây là yếu tố văn hóa đáng được quan tâm nghiên cứu.
2. Một số đặc điểm của làng nghề, nghề truyền thống:
Trong các thế kỷ trước, với vai trò là một đô thị - thương cảng có lịch sử lâu đời và là nơi tụ cư, hợp cư của nhiều thành phần cư dân liên tục trong nhiều thời kỳ, nhiều thế kỷ nên tại thương cảng Hội An, cùng với việc phát triển về hoạt động thương nghiệp - ngoại thương là sự ra đời và hoạt động nhộn nhịp của các ngành nghề, làng nghề thủ công. Qua khảo sát thực địa, đối chiếu với các tư liệu thư tịch và tư liệu dân gian, chúng tôi thấy rằng hoạt động của các nghề thủ công truyền thống, các làng nghề truyền thống ở Hội An có một số đặc điểm cần lưu ý.
2.1. Sự ra đời của các ngành nghề, làng nghề thủ công truyền thống ở Hội An là kết quả tất yếu của quá trình phát triển đô thị nhằm phục vụ nhu cầu đa dạng của các tầng lớp cư dân ở đô thị - thương cảng Hội An cũng như của thương khách nước ngoài. Có thể nói việc phát triển của các ngành nghề, làng nghề thủ công truyền thống ở Hội An và các vùng ven Hội An là biểu hiện sinh động của quá trình phát triển kinh tế thương nghiệp - ngoại thương, của quá trình đô thị hóa mà cụ thể là sự tách ra mạnh mẽ khỏi nông nghiệp của các ngành nghề truyền thống, của các hoạt động dịch vụ.
2.2. Các ngành nghề, làng nghề truyền thống ở Hội An phát triển đa dạng, phong phú, bao gồm nhiều nhóm nghề khác nhau, trong đó nổi bật là các nhóm nghề truyền thống liên quan đến hoạt động buôn bán, dịch vụ.
Căn cứ vào các nghề hiện tồn và một số nghề đã mai một nhưng vẫn được lưu lại trong các nguồn tư liệu thư tịch, ta có thể hình dung hoạt động nhộn nhịp của các nghề truyền thống ở Hội An bao gồm các nhóm sau:
1) Nhóm nghề thủ công mỹ nghệ | 2) Nhóm nghề dịch vụ - khai thác |
- Gốm Nam Diêu | - Rèn |
- Làm đồ sừng Xuân Mỹ | - Mộc dân dụng |
- Dệt | - Đóng ghe thuyền |
- Làm kim hoàn | - Làm công cụ nông nghiệp |
- Làm giày, dép | - Làm bao bì |
- Đan mây tre | - Khai thác yến sào v.v.. |
- Thêu | - Nghề chài lưới |
- Làm lồng đèn | - Đan lưới, đan võng v.v... |
- Chạm trổ gỗ | - Làm lưỡi câu |
- Cẩn, khảm gỗ | - Làm thau cước |
- Sơn thiếp | |
- May | |
- Làm chiếu | |
- Làm tranh dân gian | |
- Làm đầu Thiên cẩu v.v... | |
3) Nhóm chế biến, gia công | 4) Nhóm nghề đặc biệt |
- Chế biến các món ăn | - Nghề đông y |
- Làm mắm | - Làm thầy cúng |
- Làm đậu hũ | - Nghề phong thuỷ v.v... |
- Nấu rượu | - Chụp ảnh |
- Ép dầu | - Nghề chơi cây cảnh v.v... |
- Làm bánh kẹo v.v... | |
- Chải cau | |
- Chọn bó quế | |
- Làm vi cước cá | |
2.3. Sự phát triển các ngành nghề, làng nghề truyền thống ở Hội An là sự tiếp nối truyền thống ngành nghề từ các vùng châu thổ Bắc bộ, Bắc Trung bộ trong điều kiện cư trú, sinh thái - nhân văn mới có sự tiếp thu, hoà nhập với truyền thống ngành nghề của cư dân bản địa là người Chăm, với cư dân các nước đã đến cư trú , buôn bán ở Hội An, đặc biệt là cư dân Trung Hoa và Nhật Bản.
Một thực tế cho thấy nhiều làng nghề truyền thống ở Hội An gắn sự phát triển lịch sử của mình với các tộc họ tiền hiền có nguồn gốc từ các vùng Thanh Nghệ như làng mộc Kim Bồng, làng gốm Thanh Hà, làng rau Trà Quế v.v... Một số truyền thuyết về ngành nghề cũng cho thấy chúng có nguồn gốc từ các địa phương ở Bắc Trung Bộ như nghề làm thau cước Mậu Tài, nghề gốm Nam Diêu...
Việc chung cư với người Chăm, với cư dân Trung Hoa, Nhật Bản và Phương Tây đã tạo điều kiện để cư dân địa phương hình thành, phát triển một số nghề thủ công mang đậm dấu ấn giao lưu - hội nhập về văn hoá như nghề đóng ghe bầu, nghề làm kim hoàn, nghề làm vàng mã, nghề chụp ảnh và một số nghề dịch vụ khác...
2.4. Do quá trình chuyển vùng, quá trình giao lưu - tiếp biến nên phần lớn các ngành nghề, làng nghề ở Hội An:không xác định được danh tánh, lai lịch cụ thể của tổ nghề như ở Đàng Ngoài. Hiện tượng chung là nhiều nghề thờ những vị thần cổ đại có nguồn gốc từ Trung Hoa như Cửu Thiên huyền nữ, Ngũ hành tiên nương, Lỗ Ban, Lỗ Bốc hoặc dùng một danh hiệu chung là Bách nghệ tiên sư, Tổ sư, Thiên công...
Một số ít làng nghề, ngành nghề còn lưu truyền danh tánh những vị khai sáng, hoặc truyền nghề thì đó là những nhân vật có lai lịch muộn, gắn với quá trình di dân của người Việt vào các thế kỷ XVI - XVII như truyền thuyết về ông Trần Tiến, người làng Thanh Châu có công phát hiện ra yến sào, hoặc bà Phước và bà Tích, có công phổ biến nghề gốm ở Nam Diêu.
2.5. Các làng nghề, ngành nghề ở Hội An cũng gắn với một không gian văn hoá nhất định, với một địa bàn cư trú và một nhóm cư dân nhất định có mối liên quan về ngành nghề. Tuy vậy, cách thức tổ chức quản lý thường không chặt chẽ như các làng nghề ở Đàng Ngoài. Không gian cư trú, không gian văn hoá của nhiều làng nghề, xóm nghề ở Hội An là không gian mở, thông thoáng với nhiều đường giao thông cả về thuỷ lẫn bộ. Cho đến nay hầu như chúng tôi chưa tìm thấy một văn bản nào liên quan đến quy định, quy chế về tổ chức quản lý của các ngành nghề, làng nghề ở Hội An. Các hiệp thợ, nhóm thợ và những người cùng nghề ở đây cũng tổ chức hành nghề theo các phường, hội, phổ, vạn. Tuy nhiên qua khảo sát chúng tôi thấy rằng mối liên kết của các tổ chức này cũng mang tính mở, không gò bó, ép buộc. Mục đích tương tế, tín ngưỡng nổi lên như một yếu tố để liên kết các cá nhân trong cùng một tổ chức nghề nghiệp hơn là các quy định, quy chế mang tính nhà nước. Mỗi phường, hội, phổ, vạn thường có những địa điểm thờ tự các vị tổ nghề, các vị thần bảo hộ riêng, có ngày cúng vào dịp khai trương mở nghề đầu năm và tạ tổ cuối năm. Đây là một đặc điểm cần lưu ý khi khôi phục, phát triển các làng nghề, ngành nghề truyền thống ở địa phương.
2.6. Một thực tế khá phổ biến ở Hội An là một làng thường chuyên về một số nghề, trong đó có những nghề nổi trội, phát triển mạnh tại một số xóm ấp của làng. Từ đó hình thành nên các xóm nghề, các vạn nghề nằm trong làng. Hiếm thấy trường hợp một làng chỉ chuyên về một nghề, có chăng thì chỉ thấy ở một số làng chài lưới mà thôi. Thực tế này đặt ra vấn đề cần phải định danh các làng nghề, xóm nghề một cách phù hợp cũng như việc xác định không gian văn hoá mang tính đặc trưng của từng xóm nằm trong làng hoặc xã. Có thể thấy điều này qua xóm gốm Nam Diêu, xóm rau Trà Quế, khai thác yến Trà Quân...
2.7. Phương thức truyền nghề lưu hành phổ biến của các làng nghề, ngành nghề ở Hội An cũng được thực hiện chủ yếu theo quan hệ gia đình, thân tộc. Tuy vậy, yếu tố giữ bí mật, bí quyết ngành nghề không nặng nề như một số nơi ở Đàng Ngoài, trừ trường hợp đối với một số nghề đặc biệt như làm vi cước cá, chế biến một số món ăn đặc sản. Quyết định sự phát triển của nghề là sự tiếp nối, kế thừa kỹ năng, kỹ xảo giữa các thế hệ thợ, nghệ nhân. Một thực tế cho thấy, do nhiều nguyên nhân, sự kế thừa này càng về sau càng yếu dần do lực lượng thợ trẻ không còn mặn mà với nghề cũ của cha ông chứ không phải do sự bí mật về nghề nghiệp. Thực tế này đòi hỏi phải có những giải pháp phù hợp về đào tạo, về tăng mức thu nhập của những người làm nghề thủ công truyền thống nếu muốn khôi phục, phát huy một số nghề của địa phương.
Các làng nghề, xóm nghề, ngành nghề truyền thống ở Hội An là những thực thể văn hoá sống động, gắn với quá trình phát triển của các vùng đất và cộng đồng dân cư, với không gian văn hoá, cảnh quan địa lý - sinh thái của từng làng xã, địa phương cụ thể. Vì vậy, có thể nói rằng, nếu đánh mất những thực thể này hoặc làm biến dạng chúng cũng có nghĩa là chúng ta đã đánh mất đi vốn di sản văn hoá mà cha ông đã dày công bồi đắp và truyền lại từ hàng trăm năm trước. Việc bảo tồn và phục hồi lại diện mạo sống động, nhộn nhịp của một số làng nghề, xóm nghề, ngành nghề truyền thống đặc trưng của địa phương tuy còn gặp nhiều khó khăn nhưng chắc chắn sẽ đạt được kết quả nếu chúng ta có những nhận thức đầy đủ, toàn diện về vai trò, vị trí, giá trị văn hoá của chúng, có những biện pháp phù hợp, có sự tham gia góp sức của nhiều cấp chính quyền, nhiều nhà chuyên môn và sự đồng thuận cao của nhân dân.
(Nguyễn Chí Trung - Trần Văn An, Nghề truyền thống Hội An, Trung tâm Quản lý Bảo tồn di tích Hội An, 2008)
Chú ý: Việc đăng lại bài viết trên ở website hoặc các phương tiện truyền thông khác mà không ghi rõ nguồn http://hoianheritage.net là vi phạm bản quyền