Bão, lụt ở Quảng Nam nửa đầu thế kỷ XIX: Chính sách ứng phó của triều Nguyễn

Thứ năm - 23/10/2025 23:22
Quảng Nam có địa thế “kề núi sát biển”, là điểm tụ của gió mùa, mưa lớn tạo nên các dòng chảy mạnh từ thượng nguồn đổ ra biển thông qua hệ thống sông ngòi dày đặc, biến nơi đây trở thành “rốn bão, lụt” của miền Trung.
     Từ đầu triều vua Minh Mạng đến cuối triều vua Tự Đức, các văn bản hành chính (Châu bản triều Nguyễn), các bộ sử như Đại Nam thực lục, Minh Mệnh chính yếu, Quốc triều chính biên toát yếu,… đều ghi nhận ở Quảng Nam thường xuyên xảy ra bão, lũ lụt, gây tổn thất to lớn về mùa màng, nhà cửa, tính mạng nhân dân, thậm chí buộc chính quyền phải di dời phủ lỵ[1]. Việc nghiên cứu về bão, lụt cũng như chính sách ứng phó của triều đình nhà Nguyễn, không chỉ giúp hình dung rõ hơn bức tranh thiên nhiên khắc nghiệt, mà còn phản ánh vai trò quản trị, điều hành của chính quyền trong việc ứng phó, khắc phục thiên tai bão, lụt ở Hội An, Quảng Nam trong giai đoạn nửa đầu thế kỷ XIX.
 
lut giap thin
Lụt  năm Giáp Thìn  - 1964 ở Hội An - Ảnh tư liệu
 
     Theo sử liệu nhà Nguyễn, đến thế kỷ XIX, Quảng Nam có: “Khí hậu ấm áp, nắng nhiều mưa ít. Mùa xuân mùa hạ gió Đông Nam thổi mạnh, mùa thu mùa đông có gió Tây Bắc nhẹ. Tháng trong xuân đã nắng nóng, vào giữa mùa thu thường có mưa lũ, qua tiết đông chí hết lũ, có gió Bắc hơi lạnh. Tháng 12 đã nghe tiếng sấm, khí trời đã ấm. Núi Trà Sơn, cửa Câu Đê là nơi núi biển giao tiếp, cho nên mây đen thường xuất hiện ở Trà Sơn, cầu vồng thường nổi lên ở Câu Đê, điều là điềm sắp mưa, ấy do khí núi sông giao hoà vậy”.[2]

     Dân chúng ở đây chủ yếu chuyên về nghề nông “đàn ông thì lo việc cày ruộng, đàn bà chuyên nghề nuôi tằm dệt cửi[3], vì thế “nhà nông thường quan sát sự vật để chiêm nghiệm về mưa lụt được mất trong năm. Như ruộng lúa mà cấy một đêm mà nước ruộng trong, thì năm ấy ắt được mùa, còn nếu cách đêm mà nước vẫn đục không trong thì năm ấy mất mùa. Cá chép và các giếc có nhiều, thì năm ấy mưa gió thuận hoà. Cá chim nhiều thì mùa xuân bị hạn. Cá rô nhiều thì năm ấy lạnh. Ong làm tổ trên cao thì lụt nhiều, dưới thấp thì gió nhiều. Xương đùi ếch khúc đầu đen thì thượng tuần tháng ấy mưa, nếu đen cả thì mưa nhiều, trắng cả thì không mưa. Con nhện dăng lưới trong cỏ mà sương mù đọng ngay giữa lưới chùng xuống, thì năm ấy được mùa, còn sương đọng lệch một bên lưới mà lồi lên và cạn, thì năm ấy mất mùa. Lại như măng tre thấy mọc bên ngoài bụi thì không có gió lớn, còn mọc ở giữa bụi thì có gió to”.[4]

     Lụt ở Quảng Nam thường do mưa lớn ở thượng nguồn các con sông hoặc do bão gây mưa lớn trên diện rộng gây ra hiện tượng ngập úng khắp nơi. Đối với các khu vực có địa hình núi, đồi dốc, thung lũng hẹp, nơi dòng chảy tập trung nhanh và mạnh còn có hiện tượng lũ quét do mưa lớn kéo dài.[5]

     Theo các ghi chép trong Châu bản triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, giai đoạn từ triều vua Minh Mạng đến vua Tự Đức bão, lụt thường xuyên xảy ra, gây nhiều thiệt hại về người và tài sản ở Quảng Nam cùng với nhiều tỉnh thành của miền Trung[6]. Trong đó có nhiều trận bão, lụt lớn như:

     Tháng 10 năm 1825, dinh Quảng Nam bị mưa lụt, mưa từ ngày 2 đến ngày 4 nước dâng cao 5 thước 7 tấc, lúa mùa tháng 10 đang trổ bông bị ngập lụt và hư hai đến 4 - 5 phần 10, giá gạo tăng lên từ 1 quan tiền đến 1 quan 7 tiền.[7]

     Tháng 10 năm 1826 ở kinh kỳ và các trấn Quảng Nam, Quảng Ngãi bị bão và lụt lớn, thuyền bè bị chìm, nhiều người chết mùa màng bị thiệt hại nặng.[8]

     Tháng 10 năm 1832, bão đổ bộ vào tỉnh Quảng Nam gây lụt lớn, dân nhiều người bị chết đuối. [9]

     Tháng 10 năm 1839, hai tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi bị bão lụt, nước dâng cao dài ngày, nhiều làng ở ngoài thành Quảng Nam phải bắc sàn lên nóc nhà để ở, không có thức ăn, quan tỉnh cấp gạo muối cho dân.[10]

     Tháng 9 năm 1843, trận bão lụt ngày 24 và ngày 25 tháng 9 năm 1843 đã gây thiệt hại tài sản và mùa màng của dân. Trong trận này có 2 chiếc thuyền chở đường cát ra nhập ở cửa Đà Nẵng bị mất tích.[11]

     Tháng 9 năm 1847, một trận lụt xảy ra ở Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi,… nước dâng cao hơn 8 thước (2m), nhiều nhà bị đổ, thuyền bè bị đắm, dân nhiều người bị chết đuối[12].Tháng 10 cùng năm hai tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi lại bị bão lụt, dân nhiều người bị chết đuối.[13]

     Tháng 10 năm 1849, hai tỉnh Quảng Nam và Quảng Trị bị bão lụt,… vua Tự Đức ra lệnh xuất kho khẩn cấp cho vay hoặc bán giảm giá cho dân[14]. Trận lụt năm 1849 làm xói lở bờ sông xã Uất Luỹ nơi đóng phủ Điện Bàn của tỉnh Quảng Nam nên tháng 10 năm 1850 phủ lỵ Điện Bàn dời sang xã Thanh Chiêm (dinh cũ Quảng Nam).[15]

     Tháng 10 năm 1851, hai tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi vừa trải qua cơn bão làm đình chùa sập ngã, thuyền ghe bị chìm, nhân dân nhiều người bị chết đuối.[16]

     Ngày 20 tháng 4 năm 1854, một trận cuồng phong xảy ra ở tỉnh Quảng Nam, riêng huyện Hoà Vang có 145 ngôi nhà dân ở gần biển bị sụp đổ, 13 sở đình chùa bị sập, 16 người dân bị chết đuối, 79 chiếc thuyền bị chìm và hỏng nặng. Chiếc thuyền buôn của Đỗ Quang Thuận, người Triều Châu, Trung Hoa bị chìm, hàng hoá bị trôi dạt. Một chiếc thuyền của Châu Niệm[17], người Phước Kiến bị chìm làm 21 khách trong thuyền bị chết. Chiếc thuyền của Kim Dã Phát người Triều Châu bị chìm 4 người bị chết, hàng hoá bị mất.[18]

     Tháng 11 năm 1856, các tỉnh Quảng Bình, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi bị bão lụt lớn, kinh thành mặt trước bị sụt lở hai đoạn. Ba tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quảng Bình lúa má bị mất trắng, đình chùa, nhà cửa, thuyền bè bị đổ, chìm rất nhiều.[19]

     Tháng 10 năm 1861, Quảng Nam bị bão, nước dâng lên hơn 2 thước.[20]

     Tháng 11 năm 1878, trong tháng này tỉnh Quảng Nam hai lần bị bão và lụt; lần thứ nhất nước ngập lụt 11 thước (gần 3m), lần sau nước lên cao 9 thước (hơn 2m). Dân tình đói khổ, nhiều nhà phải đem con bán cho Hoa thương vì không đủ sức nuôi.[21]

     Tháng 9 năm 1879, tỉnh Quảng Nam bị lụt nặng gây thiệt hại nghiêm trọng, nhất là các huyện Hoà Vang, Diên Phước, Duy Xuyên, Quế Sơn, 122 người bị chết, 1503 ngôi nhà bị sập.[22]

     Tháng 10 năm 1880, tỉnh Quảng Nam bị bão lụt, nặng nhất là huyện Hoà Vang, nhà cửa, đình chùa, đò thuyền bị ngập đắm, nhiều người chết đuối, mùa màng bị thiệt hại nặng.[23]

     Trước những sự thiệt hại về người và tài sản do bão, lụt gây ra, triều đình nhà Nguyễn đã có những chủ trương, chính sách kịp thời nhằm ứng phó, khắc phục hậu quả cũng như phòng chống bão, lụt mang tính lâu dài, bền vững.

     * Điều cử quan lại địa phương kịp thời nắm bắt tình hình bão, lụt, xem xét mức độ thiệt hại
 
     Sau các trận bão, lụt, các quan tỉnh thành được triều đình điều động để nắm bắt tình hình bão, lụt tại địa phương, căn cứ tình hình thực tế để có những giải pháp ứng cứu, khắc phục kịp thời, tại chỗ hoặc báo cáo lên triều đình.


     Tháng 10 năm 1828, trấn Quảng Nam bị mưa lụt, lúa vụ thu bị tổn hại nhiều, dân nhiều người bị chết đuối, vua Minh Mạng sai quan trấn Quảng Nam đi khám xét tình hình để tìm cách cứu trợ.[24]

 
lut hoi an 2022
Lụt ở Hội An năm 2022 - Ảnh: Quang Ngọc
 
     Tháng 9 năm 1833, tỉnh Quảng Nam bị mưa lụt, giá gạo tăng. Vua Minh Mạng ra dụ cho Tuần phủ Đỗ Khắc Thư xét hỏi tình hình để cứu tế.[25]

     Ngày 10 tháng 10 năm 1843, bão lụt gây thiệt hại các tỉnh Quảng Ngãi, Quảng Nam, Thừa Thiên, Quảng Trị, Quảng Bình, ở kinh thành Huế nước ngập sâu đến 1,2 mét[26]… Tuần vũ  Nguỵ Khắc Tuần tâu về tình hình bão lụt ở Quảng Nam làm lúa mùa thu bị thiệt hại nặng, giá gạo tăng cao.[27]

     Tháng 10 năm 1860, tỉnh Quảng Nam bị lụt to, vua Tự Đức sai Khoa đạo Nguyễn Hữu Thước kịp thời đến địa phương cùng quan tỉnh xem xét, cứu trợ.[28]

     Tháng 11 năm 1863, các tỉnh Quảng Nam, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà bị lụt, vua Tự Đức sai quan tỉnh đến nơi khám xét để cứu tế cho dân.[29]

     Tháng 10 năm 1864, các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi bị bão lụt nhà cửa đổ nát, thuyền bè chìm vỡ, dân chúng bị thương và chết rất nhiều. Sai quan đến tận nơi để khám xét và cứu trợ.[30]

     * Xuất kho địa phương phát chẩn gạo, muối, tiền và các vật dụng thiết yếu

     Dưới triều Nguyễn, ở mỗi tỉnh thành đều có các kho lương thực dự trữ, khi thiên tai xảy ra, triều đình cho phép địa phương xuất kho cứu tế, tiến hành phát chẩn gạo, muối, tiền và các vật dụng thiết yếu nhằm cứu trợ dân chúng.

     Tháng 12 năm 1828, Quảng Nam, Quảng Ngãi bị lụt nặng, vua sai trấn thành cấp tiền gạo cho dân, lại sai Ngoại lang Binh bộ Dương Văn Phong, viên Ngoại lang Lễ bộ Đặng Văn Thống chia nhau đi Quảng Nam, Quảng Ngãi phát thóc gạo, tiền bạc cho dân vùng lũ nên giá gạo trong hai tỉnh đó được ổn định.[31]
     
     Tháng 12 năm 1836, Quảng Nam bị lụt, vua Minh Mạng sai quan tỉnh đem gạo, cơm, dầu, muối cứu.[32]

     
     Tháng 8 năm 1847, Thừa Thiên, Quảng Trị, Quảng Bình, Quảng Nam, Quảng Ngãi bị bão lụt. Vua Thiệu Trị sai các quan tỉnh đem gạo, tiền, muối, dầu cấp cứu cho dân.[33]

     
     Tháng 10 năm 1849, các tỉnh Quảng Nam, Quảng Trị, Quảng Bình, Thừa Thiên bị bão lụt, vua Tự Đức sai quan các tỉnh xuất kho cấp tiền gạo ngay[34]. Ở Quảng Nam nhà cửa bị đổ, xét các hạng trợ cấp từ 3, 2 và 1 quan tiền. Người chết đuối cấp 3 quan tiền.[35]


     Việc cứu trợ trận bão vào tháng 6 năm 1854 ở hai tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi vẫn giống như quy định năm 1849, tuy nhiên triều đình có quy định về sự thiệt hại của đình, chùa. Theo đó, đối với đình, chùa là nhà ngói được cấp thêm 4 quan 5 tiền, đình tranh cấp 3 quan 5 tiền. Còn 2 chiếc thuyền của Kim Dã Phát và Châu Miện bị chìm, bị chết, nếu ai còn sống được cấp 1 quan tiền và 1 vuông gạo.[36]

     Tháng 10 năm 1860 và tháng 9 năm 1861, các tỉnh Quảng Nam, Quảng Bình, Nghệ An, Hà Tĩnh bị bão lụt, vua sai các quan đi khám xét và cấp tiền gạo cho dân.[37]
Tháng 10 năm 1863 các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi bị bão lụt vua Tự Đức sai các quan đến các tỉnh cùng với quan tỉnh khám xét cấp tiền gạo cho dân.[38]

     Tháng 12 năm 1878, tỉnh Quảng Ngãi và Quảng Nam mỗi tỉnh xuất chi 10.000 phương gạo cho đủ chi cấp.[39]

     Tháng 10 năm 1882, Phủ Thừa Thiên và các tỉnh Quảng Nam, Quảng Trị, Quảng Bình bị bão. Vua sai phát chẩn cho dân.[40]

     * Xuất kho trung ương để chấn cấp, bán hoặc cho dân vay, thế chấp để lấy gạo

     Đối với những trận bão, lụt gây thiệt hại nặng về người, tài sản, gây thất thu mùa màng, lương thực trong nhân dân, triều đình tiến hành cho xuất kho gạo trung ương để cứu đói.
Tháng 10 năm 1826, ở Thừa Thiên bị lụt vua Minh Mạng sắc cho Phan Huy Chú, phủ thần Thừa Thiên lấy tiền gạo ở kho ra để cứu giúp cho dân. Phan Huy Chú phát chẩn ít quá, vua triệu đến trách: “Trẫm gia ân hậu cho dân kinh kỳ vốn không kể phí, nay người thế là không biết quốc thể cho lắm, phàm nhà giàu chu cấp cho chòm xóm chẳng tiếc huống chi nhà nước phát chẩn cho dân mà tiếc ư?”. Vua Minh Mạng lại sai cấp thêm tiền gạo cho dân Quảng Nam, Quảng Ngãi bị đói khổ.[41]

     Tháng 9 năm 1834, Quảng Nam bị lũ lụt, ở các nơi bị thiệt hại nhẹ, vua ra lệnh xuất kho bán hoặc cho dân vay khi mùa đông đến. Vì mùa đông lương thực trong dân bị cạn dân sẽ không có gạo ăn.[42]

     Tháng 10 năm 1856, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi bị lụt. Vua Tự Đức ra lệnh nếu dân còn quẫn bách thì xuất kho bán hoặc cho dân vay.[43]
Tháng 11 năm 1878, tỉnh Quảng Nam bị bão lụt, vua Tự Đức chuẩn cho Khâm sai Hoàng Diệu cứu tế; tải 5 thuyền chở gạo từ Kinh đến, mỗi thuyền 70-80 phương, thuyền nhỏ 50-60 phương bán cho dân, cho dân thế chấp đồ đồng để lấy gạo ăn.[44]

     * Tổ chức lạc quyên, ngăn cấm nạn buôn trẻ em

     Tháng 10 năm 1856, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định mưa lụt, tỉnh thành đưa tiền gạo lạc quyên để chia cấp cho dân.[45]

    Trong trận bão lụt tháng 8 năm 1878 ở Quảng Nam bị thiệt hại hết sức nghiêm trọng. Nhiều gia đình phải bán con cho thương nhân người Hoa. Ở Hội An có người nước Thanh thu mua trẻ con để đem đi bán, quan tỉnh tâu lên, vua Tự Đức sai quan đi phát chẩn, không bắt thế chấp mới bán gạo, sai nghiêm cấm những người buôn nước Thanh không đem những trẻ em mua được về nước. Nếu có mua để giúp người thì nên để ở phố Hội An nhằm sau này khi có thư giao trả lại hoặc cho chuộc về mới hết việc nghĩa, trong hạt nếu không có điều kiện nuôi nấng thì báo về kinh để các nhà quan hay nhà giàu tạm đem về nuôi giúp cho. Nếu đã chở đi rồi sau có thuyền nhà nước đến Hương Cảng chi của công ra chuộc lại trả con về cho cha mẹ của các cháu.[46]

     * Các biện pháp giảm và hoãn thuế

     Do ảnh hưởng của lụt, tháng 6 năm 1823 vua Minh Mạng ra dụ giảm thuế thân 3/10.[47]

    Tháng 11 năm 1863, các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà bị lụt. Vua Tự Đức dụ tha thuế và triển hạn điền binh nộp thuế cho phủ Thừa Thiên và các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định tuỳ theo thứ bậc để ân giảm.[48]

   Tháng 10 tháng 11 năm 1870, tỉnh Quảng Nam bị mưa lụt, dân các huyện Diên Phước, Hoà Vang, Duy Xuyên được tha thuế, các huyện Lệ Dương, Quế Sơn, Hà Đông nhẹ hơn được hoãn thuế.[49]

     * Chỉnh trị sông ngòi, sửa sang, di dời các công trình trọng điểm

     Năm 1813, vua Gia Long đến Đà Nẵng xem đài Điện Hải, xem quân dân đào vét sông Hà Thân bị bồi lấp do mưa lũ. Vua phát thưởng 3.000 quan tiền cho quân lính.

     Năm 1823, vua Minh Mạng cho sửa lại đài Điện Hải ở Đà Nẵng, sai Phó đô thống chế là Nguyễn Văn Trí và quan Tham tri Bộ binh là Nguyễn Khoa Minh chỉ huy công việc. Nguyễn Khoa Minh báo tâu rằng: “Công việc tu bổ có thể cần 200 người làm trong 1 tháng, điều 91 lính hiện lưu trú tại đài Điện Hải đồng thời phái 100 thợ nề để xây gạch và lợp mái. Lương thợ một tháng là 2 quan tiền và 1 phương gạo[50].

     Tháng 7 năm 1826, dinh Quảng Nam tâu: “Sông Vĩnh Điện bị mưa lụt bồi cạn, xin triều đình cho vét lại sông, thuê 300 dân phu đào, nhổ số cọc gỗ ở các đề, đào thêm sông Cẩm Sa, trả công dân phu mỗi ngày mỗi người 2 tiền, gạo 1 bát”. Vua Minh Mạng chuẩn cho lời tâu, để thực hiện.[51]

     Tháng 10 năm 1850, ở Quảng Nam, phủ Điện Bàn nằm ở xã Uất Lũy gần bờ sông bị nước lụt chảy xói xuyên thủng vào, quan tỉnh quyết định cho chuyển về thành cũ để đảm bảo an toàn hơn.[52]

     Qua một số tư liệu, có thể thấy thiên tai bão, lụt là một phần tất yếu trong dòng chảy lịch sử của vùng đất Quảng Nam. Với những chính sách ứng phó và khắc phục kịp thời sau bão, lụt cho thấy sự quan tâm của triều đình nhà Nguyễn đối với đời sống nhân dân. Các chính sách của triều đình không chỉ quan tâm cứu trợ trước mắt mà còn hướng đến các giải pháp lâu dài, như chỉnh trị sông ngòi, chính sách điều hoà lương thực nhằm hỗ trợ nhân dân ổn định đời sống. Những biện pháp ấy vừa phản ánh tư duy quản trị, vừa thể hiện tính nhân đạo của nhà nước quân chủ trong việc bảo vệ dân chúng trước thiên tai khắc nghiệt.

 
Tài liệu trích dẫn:
[1] Trận lụt tháng năm 1849 làm xói lở bờ sông xã Uất Lũy nơi đóng phủ Điện Bàn của tỉnh Quảng Nam nên tháng 10 năm 1850 phủ lỵ Điện Bàn dời sang xã Thanh Chiêm (dinh cũ Quảng Nam). Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập 27, Nxb. Khoa học xã hội, bản dịch 1963, 1979 (38 tập), tr.250. Dẫn theo Đỗ Bang (chủ biên), Lũ lụt ở các tỉnh miền Trung trong hai thế kỷ XIX - XX, Nxb Đà Nẵng, 2002, tr.58.
[2] Quốc sử quán triều Nguyễn (bản dịch 2012), Đại Nam nhất thống chí, tập 1, Nxb Lao động, Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây, tr.333-334.
[3] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, tập 1, bản dịch đã dẫn, tr.334.
[4] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, tập 1, bản dịch đã dẫn, tr.334.
[5] Lũ quét là hiện tượng nước mưa lớn đầu nguồn trong một phạm vi không rộng lắm và thời gian ngắn xảy ra ở vùng núi, vùng bán sơn địa, có các sông suối ngắn, độ dốc dòng sông suối lớn, diện thoát nước hẹp không hoặc có lớp phủ thực vật. Trường hợp mưa quá lớn, nước sông, suối dâng cao đột ngột tạo thành dòng nước hung hãn cuốn phăng đi tất cả nhà cửa, súc vật, cây cối, v.v… Xảy ra trong một thời gian ngắn. Theo Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam (2002), Từ điển bách khoa Việt Nam, Tập 2, Nxb. Từ điển bách khoa, tr.754.
[6] Trong công trình nghiên cứu về lụ lụt ở miền trung thế kỷ XIX - XX (TS. Đỗ Bang chủ biên, xuất bản năm 2002) đã thống kê trong 80 năm đầu của thế kỷ XIX, có 134 trận bão lụt hoặc bão và lụt xảy ra ở miền Trung. Nếu kể tính theo đơn vị những trận thiên tai đó trên từng tỉnh có tất cả 230 trận, trong đó bão 28 trận, lụt 98 trận, bão kết hợp với lụt là 104 trận. Bị nhiều nhất là Quảng Nam 34 trận, trong đó bão lụt kết hợp là 18 trận, lụt 12 trận và bão 4 trận. Theo Đỗ Bang (chủ biên), sách đã dẫn, tr.93.
[7] Châu bản triều Nguyễn, tập 3, tr.224-225. Dẫn theo Đỗ Bang (chủ biên), sách đã dẫn, tr.25.
[8] Đại Nam thực lục, tập 8, bản dịch đã dẫn, tr.188. Dẫn theo Đỗ Bang (chủ biên), sách đã dẫn, tr.45.
[9] Đại Nam thực lục, tập 11, bản dịch đã dẫn, tr.160. Dẫn theo Đỗ Bang (chủ biên), sách đã dẫn, tr.48.
[10] Đại Nam thực lục, tập 21, bản dịch đã dẫn, tr.215. Dẫn theo Đỗ Bang (chủ biên), sách đã dẫn, tr.50.
[11] Châu bản triều Nguyễn, tập 25, tr.75. Dẫn theo Đỗ Bang (chủ biên), sách đã dẫn, tr.54.
[12] Đại Nam thực lục, tập 26, bản dịch đã dẫn, tr.361. Dẫn theo Đỗ Bang (chủ biên), sách đã dẫn, tr.57.
[13] Đại Nam thực lục, tập 27, bản dịch đã dẫn, tr.43. Dẫn theo Đỗ Bang (chủ biên), sách đã dẫn, tr.57.
[14] Đại Nam thực lục, tập 27, bản dịch đã dẫn, tr.193. Dẫn theo Đỗ Bang (chủ biên), sách đã dẫn, tr.58.
[15] Đại Nam thực lục, tập 27, bản dịch đã dẫn, tr.250. Dẫn theo Đỗ Bang (chủ biên), sách đã dẫn, tr.58.
[16] Báo cáo của Bộ Hộ ngày 17/12/1851. Châu bản triều Nguyễn, tập 32, tr.165. Dẫn theo Đỗ Bang (chủ biên), sách đã dẫn, tr.59.
[17] Đại Nam thực lục chép là Châu Miện.
[18] Châu bản triều Nguyễn, tập 44, tr.30-31. Dẫn theo Đỗ Bang (chủ biên), sách đã dẫn, tr.61.
[19] Đại Nam thực lục, tập 28, bản dịch đã dẫn, tr.280. Dẫn theo Đỗ Bang (chủ biên), sách đã dẫn, tr.61.
[20] Đại Nam thực lục, tập 29, bản dịch đã dẫn, tr.239-240. Dẫn theo Đỗ Bang (chủ biên), sách đã dẫn, tr.62.
[21] Đại Nam thực lục, tập 34, bản dịch đã dẫn, tr.175. Dẫn theo Đỗ Bang (chủ biên), sách đã dẫn, tr.66.
[22] Đại Nam thực lục, tập 34, bản dịch đã dẫn, tr.267. Dẫn theo Đỗ Bang (chủ biên), sách đã dẫn, tr.66.
[23] Đại Nam thực lục, tập 34, bản dịch đã dẫn, tr.372. Dẫn theo Đỗ Bang (chủ biên), sách đã dẫn, tr.67.
[24] Đại Nam thực lục, tập 9, bản dịch đã dẫn, tr.144. Dẫn theo Đỗ Bang (chủ biên), sách đã dẫn, tr.67.
[25] Đại Nam thực lục, tập 13, bản dịch đã dẫn, tr.62. Dẫn theo Đỗ Bang (chủ biên), sách đã dẫn, tr.45.
[26] Đại Nam thực lục, tập 24, bản dịch đã dẫn, tr.417. Dẫn theo Đỗ Bang (chủ biên), sách đã dẫn, tr.54.
[27] Đại Nam thực lục, tập 25, bản dịch đã dẫn, tr.81. Dẫn theo Đỗ Bang (chủ biên), sách đã dẫn, tr.55.
[28] Đại Nam thực lục, tập 29, bản dịch đã dẫn, tr.147. Dẫn theo Đỗ Bang (chủ biên), sách đã dẫn, tr.61.
[29] Đại Nam thực lục, tập 30, bản dịch đã dẫn, tr.37-41. Dẫn theo Đỗ Bang (chủ biên), sách đã dẫn, tr.74
[30] Đại Nam thực lục, tập 30, bản dịch đã dẫn, tr.118. Dẫn theo Đỗ Bang (chủ biên), sách đã dẫn, tr.63
[31] Đại Nam thực lục, tập 9, bản dịch đã dẫn, tr.143-144. Dẫn theo Đỗ Bang (chủ biên), sách đã dẫn, tr.70.
[32] Đại Nam thực lục, tập 20, bản dịch đã dẫn, tr.199-200. Dẫn theo Đỗ Bang (chủ biên), sách đã dẫn, tr.71
[33] Đại Nam thực lục, tập 26, bản dịch đã dẫn, tr.361. Dẫn theo Đỗ Bang (chủ biên), sách đã dẫn, tr.73.
[34] Đại Nam thực lục, tập 27, bản dịch đã dẫn, tr.193. Dẫn theo Đỗ Bang (chủ biên), sách đã dẫn, tr.73.
[35] Đại Nam thực lục, tập 32, bản dịch đã dẫn, tr.280-281. Dẫn theo Đỗ Bang (chủ biên), sách đã dẫn, tr.74.
[36] Đại Nam thực lục, tập 34, bản dịch đã dẫn, tr.54-57. Dẫn theo Đỗ Bang (chủ biên), sách đã dẫn, tr.74.
[37] Đại Nam thực lục, tập 29, bản dịch đã dẫn, tr.239-240. Dẫn theo Đỗ Bang (chủ biên), sách đã dẫn, tr.74.
[38] Đại Nam thực lục, tập 30, bản dịch đã dẫn, tr.125. Dẫn theo Đỗ Bang (chủ biên), sách đã dẫn, tr.75.
[39] Đại Nam thực lục, tập 34, bản dịch đã dẫn, tr.190-191. Dẫn theo Đỗ Bang (chủ biên), sách đã dẫn, tr.79.
[40] Đại Nam thực lục, tập 35, bản dịch đã dẫn, tr.151. Dẫn theo Đỗ Bang (chủ biên), sách đã dẫn, tr.67.
[41] Đại Nam thực lục, tập 8, bản dịch đã dẫn, tr.108. Dẫn theo Đỗ Bang (chủ biên), sách đã dẫn, tr.77.
[42] Đại Nam thực lục, tập 13, bản dịch đã dẫn, tr.62. Dẫn theo Đỗ Bang (chủ biên), sách đã dẫn, tr.75.
[43] Đại Nam thực lục, tập 28, bản dịch đã dẫn, tr.280. Dẫn theo Đỗ Bang (chủ biên), sách đã dẫn, tr.76.
[44] Đại Nam thực lục, tập 34, bản dịch đã dẫn, tr.175. Dẫn theo Đỗ Bang (chủ biên), sách đã dẫn, tr.76.
[45] Đại Nam thực lục, tập 28, bản dịch đã dẫn, tr.280. Dẫn theo Đỗ Bang (chủ biên), sách đã dẫn, tr.77.
[46] Đại Nam thực lục, tập 34, bản dịch đã dẫn, tr.175. Dẫn theo Đỗ Bang (chủ biên), sách đã dẫn, tr.79.
[47] Đại Nam thực lục, tập 9, bản dịch đã dẫn, tr.5. Dẫn theo Đỗ Bang (chủ biên), sách đã dẫn, tr.81.
[48] Đại Nam thực lục, tập 30, bản dịch đã dẫn, tr.37-41. Dẫn theo Đỗ Bang (chủ biên), sách đã dẫn, tr.81.
[49] Đại Nam thực lục, tập 32, bản dịch đã dẫn, tr.81. Dẫn theo Đỗ Bang (chủ biên), sách đã dẫn, tr.65.
[50] Châu bản triều Nguyễn, tập 13, tr.6. Dẫn theo Đỗ Bang (chủ biên), sách đã dẫn, tr.84.
[51] Đại Nam thực lục, tập 19, bản dịch đã dẫn, tr.175. Dẫn theo Đỗ Bang (chủ biên), sách đã dẫn, tr.87.
[52] Đại Nam thực lục, tập 27, bản dịch đã dẫn, tr.250. Dẫn theo Đỗ Bang (chủ biên), sách đã dẫn, tr.89.

Tác giả: Nguyễn Văn Thịnh

Nguồn tin: Trung tâm Bảo tồn Di sản Văn hóa Thế giới Hội An

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết
liên kết web
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây