Tại Hội An, cũng giống như một số loại hình kiến trúc khác, lăng có nhiều quy mô khác nhau tùy thuộc và điều kiện của từng địa phương. Về tính chất, lăng vừa là nơi chôn cất xương cốt, vừa là nơi thờ tự. Người dân Hội An thường lầm lẫn cách gọi giữa lăng với miếu, phần lớn gọi miếu là lăng.
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Chí Trung, lăng là loại hình kiến trúc xuất hiện riêng biệt ở các làng nghề đánh bắt cá trên biển xuất phát từ tục thờ cá Ông. Khi cá ông lụy dạt vào bờ, ngư dân tổ chức mai táng rồi sau vài năm thì cải táng lấy xương cốt chuyển về thờ trong lăng.
Lăng có quy mô vừa phải, chia thành ba gian, xây dựng hoàn toàn bằng gạch và vôi vữa theo kiểu cuốn vòm nhiều nhịp với tường dày, cột lớn tạo không gian nội thất sâu hun hút và thêm phần linh thiêng. Mái được lợp ngói âm dương và trang trí các con vật trong bộ tứ linh, hoa dây, đề tài lưỡng long tranh châu. Xương cốt cá ông được cất giữ ở hậu tẩm, chính điện là nơi thờ tự với hệ thống bàn thờ được trang trí rực rỡ.
Kiến trúc lăng ở Hội An mang giá trị riêng về nghệ thuật kiến trúc và phản ánh giá trị riêng về văn hóa của cộng đồng.
TT | Tên lăng | Địa chỉ hiện nay | Làng xã cũ |
01 | Lăng Ông Ngư | Bãi Làng – Tân Hiệp | Phường Tân Hiệp |
02 | Lăng Ông | Thanh Nhứt - Cẩm Thanh | Làng Thanh Nhứt |
03 | Lăng Ông An Bàng | An Bàng - Cẩm An | |
04 | Lăng Ông (Năm sở) | Hà Trung - Cẩm Nam | Làng Cẩm Phô |
05 | Lăng Ông | Phước Thắng – Cẩm Kim | |
06 | Lăng Tiêu Diện | Phước Trạch – Cửa Đại | |
Chú ý: Việc đăng lại bài viết trên ở website hoặc các phương tiện truyền thông khác mà không ghi rõ nguồn http://hoianheritage.net là vi phạm bản quyền