Khu mộ tộc Phan Xuân, xã Cẩm Kim
- Thứ năm - 07/11/2019 02:23
- In ra
- Đóng cửa sổ này
Cẩm Kim là một trong 13 xã/phường của thành phố Hội An, có lịch sử khá lâu đời. Tên xã Cẩm Kim ra đời vào năm 1956. Trước đó, Cẩm Kim được gọi là làng/xã/châu Kim Bồng. Tộc Phan, cùng với các dòng họ lớn như: Nguyễn, Huỳnh, Trương… gốc ở vùng Thanh Hóa, Nghệ An theo phong trào “Nam tiến” của nhà nước phong kiến Đại Việt, đặc biệt là công cuộc vào Nam của các chúa Nguyễn vào lập nghiệp tại Quảng Nam vào khoảng thế kỷ XVI, XVII và đã có công khai dựng làng quê, làng nghề mộc, nề Kim Bồng ở Cẩm Kim.
Thủy tổ của tộc Phan Xuân làng Kim Bồng (Cẩm Kim) là ông Phan Xuân Bành (1), vợ là bà tên Thái (không rõ tộc) cùng các ngài Thủy tổ tộc Nguyễn, Phan, Trương từ vùng Bắc Trung Bộ theo công cuộc Nam tiến vào đây khai hoang, lập ấp. Trải qua hơn 400 năm, tộc Phan Xuân không ngừng phát triển, đến nay đã chia thành 3 phái, 20 chi nối dõi, đến nay được 16 đời (2), con cháu sống trên mọi miền đất nước và cả ở nước ngoài. Tộc có ông Phan Văn Mưu đời thứ 9 được Vũ khố (triều Nguyễn) cấp văn bằng làm tượng mục vào năm Thành Thái thứ 3 (1891). Nhiều người trong tộc trước đây làm nghề mộc, đắp vẽ (3), hiện nay con cháu sinh sống bằng nhiều nghề. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, nỗ lực lao động cần cù, bám đất giữ làng, tiền nhân tộc Phan Xuân đã để lại đầy đủ cơ ngơi, gia phả để cho con cháu trân trọng, giữ gìn và phát huy, tìm hiểu về nguồn cội, như:
- Gia phả tộc Phan Xuân được khởi lập từ năm Thành Thái thứ 4 (1894), bổ sung chữ Hán Nôm năm Ất Mùi (1955), hiệu chỉnh và in ấn bằng Việt ngữ vào năm Tân Mão (2011).
- Nhà thờ tộc Phan Xuân được xây dựng bởi bàn tay tài hoa của nghệ nhân làng mộc Kim Bồng (không rõ niên đại khởi dựng, tuy nhiên, căn cứ vào kiểu dáng kiến trúc, chất liệu, nhà thờ có thể được xây vào cuối thế kỷ XIX), trùng tu lớn vào các năm 1910, 1927, sau đó trải qua nhiều lần trùng tu khác. Di tích có giá trị cao về mặt kiến trúc nghệ thuật, được Bộ Văn hóa (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận di tích cấp quốc gia theo Quyết định 506VH-QD ngày 19/3, cấp bằng ngày 29/11/1991.
Ngoài ra, còn có khu mộ tổ tộc Phan Xuân được tạo lập từ khoảng giữa thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, trùng tu lớn vào năm 1935, 1936 và 2011. Khu mộ cách nhà thờ tộc Phan Xuân không xa, là yên nghỉ của các vị Cao Tổ từ đời thứ 5 trở xuống và các vị Cao Tổ thuộc phái 2, chi 5, gồm nhiều phần mộ xây dựng nhà bia theo phong cách truyền thống, mang đậm sắc thái nghệ thuật địa táng của người Việt. Khu mộ đã được đưa vào Danh mục di tích lịch sử - văn hóa được bảo vệ của Thành phố Hội An vào năm 2008. (Qua các cuộc chiến tranh và thuỷ phá, mộ phần của vợ chồng Thuỷ Tổ bị thất lạc. Tháng 4 năm 2011, tộc Phan Xuân đã lập văn bia tưởng niệm ông bà Thuỷ tổ Phan Xuân Bành trong khu mộ của bổn Tộc tại nghĩa trang xã Cẩm Kim, thành phố Hội An)
Khu mộ tổ tộc Phan Xuân nằm liền kề đường giao thông, khuôn viên rộng lớn, thoáng đãng. Bao quanh khuôn viên là vườn trồng hoa màu và nhà dân. Khu mộ xoay hướng Tây Bắc (là hướng đặt cổng vào, tuy nhiên, đây không phải là hướng của các ngôi mộ), tổng thể gồm có cổng vào, các ngôi mộ Cao Tổ từ đời thứ 5 trở xuống (mộ nguyên táng, chưa từng di dời) và một số ngôi mộ của con cháu trong tộc ở các đời sau này (thuộc phái 2, chi 5). Các ngôi mộ Cao Tổ được tạo lập từ khoảng giữa thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX bằng vữa vôi, trùng tu lớn vào năm 1935, 1936, tuy nhiên, trải qua thời gian dài, chịu các tác động của thời tiết, thường xuyên bị ngập lụt, các ngôi mộ và bia mộ đều bị hư hỏng. Đến năm 2011, con cháu trong tộc cùng góp công, góp của sửa chữa khu mộ, tô trát lại các ngôi mộ bằng vữa xi măng, thay thế một số bia mộ bị hư hỏng (vữa) bằng chất liệu đá; kiến trúc khu mộ giữ ổn định cho đến ngày nay.
- Gia phả tộc Phan Xuân được khởi lập từ năm Thành Thái thứ 4 (1894), bổ sung chữ Hán Nôm năm Ất Mùi (1955), hiệu chỉnh và in ấn bằng Việt ngữ vào năm Tân Mão (2011).
- Nhà thờ tộc Phan Xuân được xây dựng bởi bàn tay tài hoa của nghệ nhân làng mộc Kim Bồng (không rõ niên đại khởi dựng, tuy nhiên, căn cứ vào kiểu dáng kiến trúc, chất liệu, nhà thờ có thể được xây vào cuối thế kỷ XIX), trùng tu lớn vào các năm 1910, 1927, sau đó trải qua nhiều lần trùng tu khác. Di tích có giá trị cao về mặt kiến trúc nghệ thuật, được Bộ Văn hóa (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận di tích cấp quốc gia theo Quyết định 506VH-QD ngày 19/3, cấp bằng ngày 29/11/1991.
Ngoài ra, còn có khu mộ tổ tộc Phan Xuân được tạo lập từ khoảng giữa thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, trùng tu lớn vào năm 1935, 1936 và 2011. Khu mộ cách nhà thờ tộc Phan Xuân không xa, là yên nghỉ của các vị Cao Tổ từ đời thứ 5 trở xuống và các vị Cao Tổ thuộc phái 2, chi 5, gồm nhiều phần mộ xây dựng nhà bia theo phong cách truyền thống, mang đậm sắc thái nghệ thuật địa táng của người Việt. Khu mộ đã được đưa vào Danh mục di tích lịch sử - văn hóa được bảo vệ của Thành phố Hội An vào năm 2008. (Qua các cuộc chiến tranh và thuỷ phá, mộ phần của vợ chồng Thuỷ Tổ bị thất lạc. Tháng 4 năm 2011, tộc Phan Xuân đã lập văn bia tưởng niệm ông bà Thuỷ tổ Phan Xuân Bành trong khu mộ của bổn Tộc tại nghĩa trang xã Cẩm Kim, thành phố Hội An)
Khu mộ tổ tộc Phan Xuân nằm liền kề đường giao thông, khuôn viên rộng lớn, thoáng đãng. Bao quanh khuôn viên là vườn trồng hoa màu và nhà dân. Khu mộ xoay hướng Tây Bắc (là hướng đặt cổng vào, tuy nhiên, đây không phải là hướng của các ngôi mộ), tổng thể gồm có cổng vào, các ngôi mộ Cao Tổ từ đời thứ 5 trở xuống (mộ nguyên táng, chưa từng di dời) và một số ngôi mộ của con cháu trong tộc ở các đời sau này (thuộc phái 2, chi 5). Các ngôi mộ Cao Tổ được tạo lập từ khoảng giữa thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX bằng vữa vôi, trùng tu lớn vào năm 1935, 1936, tuy nhiên, trải qua thời gian dài, chịu các tác động của thời tiết, thường xuyên bị ngập lụt, các ngôi mộ và bia mộ đều bị hư hỏng. Đến năm 2011, con cháu trong tộc cùng góp công, góp của sửa chữa khu mộ, tô trát lại các ngôi mộ bằng vữa xi măng, thay thế một số bia mộ bị hư hỏng (vữa) bằng chất liệu đá; kiến trúc khu mộ giữ ổn định cho đến ngày nay.
Tường rào, cổng ngõ hiện trạng được xây dựng trong lần trùng tu khu mộ vào năm 2011. Cổng có 2 trụ biểu xây gạch, đầu trụ đặt tượng cặp lân bằng đá. Trán cổng (nối 2 trụ cổng) bằng BTCT, phía trên trang trí hồi văn; lòng trán cổng đắp nổi dòng chữ bằng Việt ngữ: “Kim Bồng – Khu mộ Cao tổ Phan Xuân tộc”. Thân trụ cổng có ghi câu đối chữ Hán: 月 滿 墓 墳 知 恩 先 祖 / 地 留 骸 骨 重 義 前 人. Bên dưới có gắn bảng nhỏ bằng đá phiên âm Việt ngữ nội dung câu đối: Nguyệt mãn mộ phần, tri ân Tiên tổ / Địa lưu hài cốt, trọng nghĩa tiền nhân.
Trong khu mộ, mộ Cao Tổ nằm xen kẽ với các ngôi mộ khác của con cháu trong tộc. Các ngôi mộ được làm theo nhiều hướng khác nhau. Để tiện việc mô tả, các ngôi mộ được đánh số theo thứ tự, từ mộ Cao tổ đời thứ 5 đến các đời kế tiếp về sau (xem bản vẽ mặt bằng vị trí bên dưới).
1. Ngôi mộ số 1:
Đây là ngôi mộ đôi, là nơi an nghỉ của ông Phan Xuân Thai (đời thứ 5, Cao Tổ đầu phái 2) và vợ Huỳnh Thị Thanh. Ngôi mộ có diện tích hình vuông, kích thước: 5,5m x 5,5m, xoay về hướng Đông – Đông Nam, gồm: tường rào, nhà bia, 02 nấm mộ. Mộ nằm gần kề cổng vào. Tường rào xây gạch bao quanh khuôn viên ngôi mộ, có trụ cổng, mở lối vào ở phía đối diện nhà bia. Nền ngôi mộ láng xi măng kẻ roan hình lục giác.
Nhà bia có chu vi hình chữ nhật, kích thước phần thân: 1,5m x 0,4m, cao khoảng 2,50m. Hệ mái nhà bia gồm 4 mái, lợp ngói ống, bờ nóc, bờ chảy gắn con giống trang trí cẩn mảnh sứ. Đuôi mái vươn ra khỏi tường bao nhà bia, tạo dáng vẻ hài hòa, cân đối. Phần tường dưới đuôi mái cũng được tạo gờ chỉ mềm mại. Thân nhà bia xây tường bao quanh, phía trước chừa trống tạo ô hộc để đặt bia và nồi hương. Mặt trước có một số chi tiết trang trí bằng mảnh sứ, phần trán nhà bia có ghi số 1935, là năm ngôi mộ được trùng tu. Hai bên thân nhà bia có cặp câu đối (4): 長 江 生 三 派 / 大 木 出 五 枝 (Trường giang sinh tam phái / Đại mộc xuất ngũ chi). Tay ngai được xây đối xứng 2 bên nhà bia, vươn ra một phần tường rào biên, trang trí hoa văn bằng mảnh sứ. Phần cuối tay ngai ở tường biên được tạo hình con rồng nhìn về phía trước.
Bia mộ có kích thước: ngang 0,78m, cao 0,8m, phần trên có vát góc. Nội dung bia được bố cục thành 6 hàng, gồm 1 hàng ngang ở trên và 5 hàng dọc:
Hàng ngang, đọc từ phải sang trái: 金 江 (Kim giang)
Hàng dọc, đọc từ trên xuống, từ phải qua trái:
Nguyên văn:
保 大 乙 亥 十 年 秋
八 世 高 祖 考 潘 府 君 字 司 禄 諡 台 平 準 之 佳 城
妣 黃 貴 娘 號 玊 振 諡 声 淑 人 之 佳 城
潘 春 族 第 二 派 来 孫 昆 孫 仍 孫 雲 孫 仝 立 誌
Phiên âm:
Bảo Đại Ất Hợi thập niên thu.
Bát thế cao tổ Khảo Phan phủ quân tự Ti Lộc thụy đài bình chuẩn chi giai thành.
Tỷ Huỳnh Quý nương hiệu Ngọc Chấn thụy Thanh Thục nhân chi giai thành.
Phan Xuân tộc đệ nhị phái Lai tôn, Côn tôn, Nhưng tôn, Vân tôn đồng lập chí.
Hai nấm mộ có kích thước và hình thức giống nhau: mặt bằng hình chữ nhật có vát nhẹ ở các góc, kích thước: 1,06m x 2,3m x 0,7m, tô trát bằng vữa xi măng. Mặt trên nấm mộ có một số họa tiết trang trí bằng mảnh sứ.
2. Ngôi mộ số 2:
Ngôi mộ nằm ở khoảng giữa khuôn viên khu mộ, là nơi an nghỉ của ông Phan Xuân Siêu (đời thứ 6, Cao Tổ đầu phái 2, chi 5) và vợ Phạm Thị Mão. Ông Siêu là con trai thứ 5 của ông Phan Xuân Thai và bà Huỳnh Thị Thanh. Ngôi mộ có diện tích hình chữ nhật, kích thước: 4,70m x 5,30m, xoay về hướng Đông Bắc, gồm: tường rào, nhà bia, 01 nấm mộ (tuy là mộ đôi nhưng chỉ xây chung một nấm mộ).
Tường rào xây gạch bao quanh khuôn viên ngôi mộ, có trụ cổng, mở lối vào ở phía đối diện nhà bia. Nền ngôi mộ láng xi măng. Nhà bia có chu vi hình chữ nhật, kích thước phần thân: 1,55m x 0,55m, cao khoảng 3,20m. Hệ mái nhà bia gồm 4 mái, 2 lớp mái (kiểu cổ lầu), mái gắn mảnh chén, bờ nóc, bờ chảy gắn con giống trang trí cẩn mảnh chén. Hệ mái được làm rất cân đối, thẩm mỹ. Thân nhà bia xây tường bao quanh, phía trước xây hai ô hộc để đặt bia và nồi hương. Hai bên thân nhà bia có cặp câu đối (câu bên phải đã bị bong khỏi tường, hiện đặt tạm dưới nền đất): 金 山 追 萬 衆 / 福 地 总 千 根 (Kim sơn truy vạn chúng / Phúc địa tổng thiên căn).
Tường ngăn chính giữa 2 bia có khắc dòng chữ Hán:
Nguyên văn:
保 大 十 一 年
孟 春 潘 二 派 第 五 支
七 大 高 祖 玄 孫 来 孫 晜 孫 仝 修 補
Phiên âm:
Bảo Đại thập nhất niên
Mạnh xuân Phan nhị phái đệ ngũ chi
Thất đại cao tổ Huyền tôn Lai tôn Côn tôn đồng tu bổ.
Dưới bục đặt bia đắp gờ chỉ tạo kiểu chân quỳ. Tay ngai được xây đối xứng 2 bên nhà bia, vươn ra một phần tường rào biên và vát ở phẩn góc. Phần dưới tay ngai được tạo hình dạng cuốn thư, phía trên có cặp rồng chầu về nhà bia, gắn mảnh sứ.
Hai bia mộ giống nhau, gắn vào tường sau nhà bia, làm bằng đá trắng có kích thước: 0,51m x 0,73m, phần trên có vát góc. Diềm bia, trán bia trang trí bằng hồi văn và hoa dây. Phía trên mỗi bia có dòng chữ Hán. Nội dung bia:
* Bia bên trái:
- Dòng chữ phía trên bia: 敕 司 官 / 加 功 曹 郎 雄 才 子
Phiên âm: Sắc ti quan / Gia công Tào lang hùng tài tử.
- Bia đá có khắc các chữ:
+ Hàng ngang, đọc từ phải sang trái: 大 南 (Đại Nam)
+ Hàng dọc, đọc từ trên xuống, từ phải qua trái:
Nguyên văn:
歲 次 乙 巳 八 月 吉 日
顯 考 耆 老 潘 善 人 之 墓
男 春 威 女 氏 栢 仝 百 拜 立 石
Phiên âm:
Tuế thứ Ất Tỵ bát nguyệt cát nhật
Hiển khảo kì lão Phan Thiện Nhân chi mộ
Nam Xuân Uy, nữ Thị Bách đồng bách bái lập thạch.
* Bia bên phải:
- Dòng chữ phía trên bia: 依 張 命 / 慈 良 泰 忠 儉 (?) 人
Phiên âm: Y trương mệnh / Từ lương thái trung kiệm (?) nhân.
- Bia đá có khắc các chữ:
+ Hàng ngang, đọc từ phải sang trái: 大 南 (Đại Nam)
+ Hàng dọc, đọc từ trên xuống, từ phải qua trái:
Nguyên văn:
歲 次 乙 巳 八 月 吉 旦
顯 妣 潘 耆 老 正 室 范 氏 之 墓
男 春 威 女 氏 栢 仝 百 拜 立 石
Phiên âm:
Tuế thứ Ất Tỵ bát nguyệt cát đán
Hiển tỷ Phan kì lão chánh thất Phạm thị chi mộ
Nam Xuân Uy, nữ Thị Bách đồng bách bái lập thạch.
Nấm mộ có hình chóp chữ nhật, tô trát vữa xi măng, kích thước: 2,20m x 2,0m x 0,95m. Phía trước nấm mộ gắn bia đá nhỏ, ghi thông tin bằng Việt ngữ: Cao Tổ đời thứ 6 – Đầu chi 5 – Phái 2, ông: Phan Xuân Siêu, bà Phạm Thị Mão; Phụng lập 1845 - Ất Tỵ; Trùng tu: 1936 – 2011.
3. Ngôi mộ số 3:
Ngôi mộ nằm ở khoảng giữa khuôn viên khu mộ, về phía bên phải của ngôi mộ số 2. Đây là nơi an nghỉ của vợ chồng ông Phan Xuân Uy (đời thứ 7, là con trai cả của ông Phan Xuân Siêu) và vợ chồng ông Phan Xuân Thành (đời thứ 8, là con trai cả của ông Phan Xuân Uy). Ngôi mộ có khuôn viên hình chữ nhật, kích thước: 6,70m x 9,40m xoay về hướng Đông Bắc, gồm có nhà bia, 04 nấm mộ, không có tường rào bao bọc. Nền mộ láng xi măng để phân định khuôn viên.
So với các ngôi mộ khác, nhà bia ngôi mộ này có hình thức khá đơn giản. Nhà bia có chu vi hình chữ nhật, kích thước phần thân: 1,5m x 0,37m, cao khoảng 1,8m, không xây mái bao che. Thân nhà bia xây tường bao quanh, phía trước xây ô hộc để đặt bia và nồi hương. Mặt trước và phía trên nhà bia được trang trí bằng con giống và hoa văn gắn mảnh chén. Tay ngai xây thấp, đối xứng 2 bên nhà bia, đắp nổi bằng vữa xi măng tạo hình cuộn mây và hoa dây rất mềm mại, uyển chuyển.
Bia mộ có kích thước: 1,0m x 1,0m, phần trên có vát góc. Nội dung bia:
Nguyên văn:
大 南
保 大 十 一 年 孟 春 榖 旦
生 下 五 世 潘 府 君 字 忠 正 第 一 郎 之 墓
六 世 金 江 顯 祖 考 潘 府 君 字 曰 知 韞 之 佳 城
金 江 顯 祖 妣 黃 貴 娘 號 曰 敬 德 之 佳 城
元 配 阮 仲 娘 號 莊 書 曰 淑 人 之 墓
内 孫
第 一 潘 生 潘 謀 九 品 潘 室 中 阮 潘 戱
第 二 下 潘 巨 本 生 潘 言 支 潘 些 室 中 黃 潘 生 下 潘 嗔
第 三 潘 隋 生 下 潘 宜
Phiên âm:
Đại Nam
Bảo Đại thập nhất niên mạnh xuân cốc đán
Sinh hạ ngũ thế Phan phủ quân tự Trung Chánh đệ nhất lang chi mộ
Lục thế Kim giang Hiển tổ khảo Phan phủ quân tự viết Tri Uẩn chi giai thành
Kim giang tổ tỷ Huỳnh Quý nương hiệu viết Kính Đức chi giai thành
Nguyên phối Nguyễn Trọng nương hiệu Trang Thư viết Thục Nhân chi mộ.
Nội tôn đệ nhất Phan sinh Phan Mưu Cửu phẩm Phan thất trung Nguyễn Phan Hí
Đệ nhị hạ Phan Cự Bản sinh Phan Ngôn Chi Phan Tá thất trung Huỳnh Phan sinh hạ Phan Sân
Đệ tam Phan Tuỳ sinh hạ Phan Nghi.
Bốn nấm mộ có hình thức giống nhau: mặt bằng hình chữ nhật, kích thước: 0,93m x 2,13m x 0,75m, tô trát bằng vữa xi măng. Mặt trên nấm mộ có họa tiết trang trí (hoa dây) và chữ Phúc (福) bằng mảnh sứ. Bốn nấm mộ xây thành 2 hàng ngang nhưng lệch trục. Hai nấm mộ phía trước, gần nhà bia là mộ vợ chồng ông Phan Xuân Uy. Hai nấm mộ phía sau là mộ vợ chồng ông Phan Xuân Thành.
4. Ngôi mộ số 4:
Đây là ngôi mộ đôi, là nơi an nghỉ của ông Phan Xuân Khái (đời thứ 8, là con trai thứ ba của ông Phan Xuân Uy) và vợ Phạm Thị Diên. Ngôi mộ có kích thước: 4,20m x 5,10m, xoay về hướng Đông Nam, gồm: tường rào, nhà bia, 02 nấm mộ. Mộ nằm liền kề cổng vào, bên phải ngôi mộ số 1. Tường rào xây gạch bao quanh khuôn viên ngôi mộ, có trụ cổng, mở lối vào ở phía đối diện nhà bia. Nền ngôi mộ lát gạch đất nung.
Nhà bia có mặt bằng hình chữ nhật, kích thước phần thân: 1,5m x 0,45m, cao khoảng 2,40m. Hệ mái nhà bia gồm 4 mái, 2 lớp mái (kiểu cổ lầu), mái lợp ngói ống, bờ nóc, bờ chảy gắn con giống trang trí cẩn mảnh sứ. Đuôi mái vươn ra khỏi tường bao nhà bia, tạo dáng vẻ hài hòa, cân đối. Thân nhà bia xây tường bao quanh, phía trước xây hai ô hộc để đặt bia và nồi hương. Hai bên thân nhà bia có cặp câu đối: 精 神 在 子 孫 / 体 魄 存 天 地 (Tinh thần tại tử tôn / Thể phách tồn thiên địa).
Dưới bục đặt bia đắp gờ chỉ tạo kiểu chân quỳ. Tay ngai có hình thức rất đơn giản, là mảng tường gạch được tạo hình uốn cong ở phần trên. Hai bia mộ giống nhau, gắn vào tường sau nhà bia, làm bằng cẩm thạch có kích thước: 0,5m x 0,68m. Diềm bia, trán bia trang trí bằng hồi văn chữ Vạn (卍) và rồng. Nội dung bia:
* Bia bên trái:
+ Hàng ngang, đọc từ phải sang trái: 錦 金 (Cẩm Kim)
+ Hàng dọc, đọc từ trên xuống, từ phải qua trái:
Nguyên văn:
歲 次 庚 寅 年 季 春 吉 日
曾 祖 妣 高 平 郡 范 氏 延 之 墓
曾 孫 潘 春 欣 合 眾 孫 仝 奉 立
Phiên âm:
Tuế thứ Canh Dần niên quý xuân cát nhật
Tằng tổ tỷ Cao Bình quận Phạm Thị Diên chi mộ
Tằng tôn Phan Xuân Hân hiệp chúng tôn đồng phụng lập.
* Bia bên phải:
+ Hàng ngang, đọc từ phải sang trái: 錦 金 (Cẩm Kim)
+ Hàng dọc, đọc từ trên xuống, từ phải qua trái:
Nguyên văn:
歲 次 庚 寅 年 季 春 吉 日
曾 祖 考 榮 陽 郡 潘 春 慨 之 墓
曾 孫 潘 春 欣 合 眾 孫 仝 奉 立
Phiên âm:
Tuế thứ Canh Dần niên quý xuân cát nhật
Tằng tổ khảo Vinh Dương quận Phan Xuân Khái chi mộ
Tằng tôn Phan Xuân Hân hiệp chúng tôn đồng phụng lập.
Hai nấm mộ có hình thức giống nhau: mặt bằng hình chữ nhật, kích thước: 1,1m x 2,5m x 0,6m, tô đá mài.
5. Ngôi mộ số 5:
Đây là phần mộ của ông Phan Xuân Lũy (đời thứ 8, là con trai thứ hai của ông Phan Xuân Uy). Ngôi mộ nằm về phía trước khuôn viên, bên phải cổng vào. Mộ xoay hướng Đông, gồm nấm mộ hình hột xoài (giật một cấp), tô trát vữa xi măng, kích thước: 2,4m x 2,95m x 0,25m và bia mộ bằng xi măng, kích thước: 0,5m x 0,72m x 0,11m. Nội dung bia:
Nguyên văn:
金 江
歲 次 丙 子 年
潘 春 永 保 生 下 男 潘 春 造 字 教 之 墓
Phiên âm:
Kim giang
Tuế thứ Bính Tý niên
Phan Xuân Vĩnh Bảo sinh hạ nam Phan Xuân Tạo, tự Giáo chi mộ.
6. Ngôi mộ số 6:
Đây là phần mộ của ông Phan Xuân Lâm (đời thứ 8, là con trai thứ tư của ông Phan Xuân Uy). Ngôi mộ nằm ở khoảng giữa khuôn viên khu mộ, về phía bên trái của ngôi mộ số 2. Ngôi mộ có diện tích hình chữ nhật, kích thước: 2m x 4m, xoay về hướng Đông Bắc, gồm: nhà bia, nấm mộ. Mộ không có tường rào bao bọc, nền mộ láng xi măng để phân định khuôn viên khu mộ.
Nhà bia có chu vi hình chữ nhật, kích thước phần thân: 1,3m x 0,65m, cao khoảng 3m. Hệ mái nhà bia gồm 4 mái, 2 lớp mái (kiểu cổ lầu), bờ nóc, bờ chảy gắn con giống trang trí rất đẹp, đỉnh chóp mái gắn bình hồ lô. Hình thức kiến trúc tổng thể nhà bia rất cân đối. Thân nhà bia xây tường bao quanh, phía trước xây hai ô hộc để đặt bia và nồi hương. Hai bên thân nhà bia có cặp câu đối: 福 勝 先 灵 萬 大 存 / 錦 金 古 墓 千 秋 在 (Phước Thắng tiên linh vạn đại tồn / Cẩm Kim cổ mộ thiên thu tại).
Tay ngai hai bên là mảng tường rất ngắn, xây ốp sát vào nhà bia, tạo hoa văn trang trí đơn giản, ốp mảnh sứ. Bia mộ có kích thước: 0,7m x 0,95m, phần trên có vát góc. Nội dung bia:
Nguyên văn:
大 南
保 大 十 一 年 孟 春 仝 造
四 世
[...] 蓬 山 顯 祖 考 蒙 授 九 品 瓦 匠 潘 効 力 佐 效 尉 令 郎 之 墓
生 下 男 潘 謀 潘 戱 潘 巨
内 孫 潘 使 潘 佂 潘 辰 潘 除 潘 財 潘 俗
仝 修 立
Phiên âm:
Đại Nam
Bảo Đại thập nhất niên mạnh xuân đồng tạo
Tứ thế
[…] Bồng sơn hiển tổ khảo mông thụ Cửu phẩm ngoã tượng Phan Hiệu Lực Tá hiệu uý lệnh lang chi mộ
Sinh hạ nam Phan Mưu Phan Hí Phan Cự
Nội tôn Phan Sử Phan Chinh Phan Thìn Phan Trừ Phan Tài Phan Tục
Đồng tu lập.
Nấm mộ có hình chóp tứ giác, kích thước: 1,34m x 2,4m x 0,4m, tô trát vữa xi măng.
* Trong số những người con trai của ông Phan Xuân Uy có ông Phan Xuân Bền (đời thứ 8), phần mộ của ông không nằm trong khu mộ này mà hiện nằm tại Nghĩa trang nhân dân thành phố Hội An.
Như vậy, các ngôi mộ trong khu mộ tộc Phan Xuân được tạo lập từ khoảng giữa thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, có niên đại trên dưới 100 năm. Đây là di tích góp phần chứng tỏ vai trò, vị thế quan trọng của tộc Phan Xuân trong lịch sử hình thành và phát triển làng xã ở Cẩm Kim nói riêng và Hội An nói chung. Khu mộ gồm nhiều phần mộ xây dựng nhà bia theo phong cách truyền thống với tỉ lệ kiến trúc hài hòa, cân đối, mang đậm sắc thái nghệ thuật địa táng của người Việt. Bên cạnh đó, khu mộ tổ tộc Phan Xuân còn là nguồn cung cấp thông tin cần thiết cho những nhà nghiên cứu văn hóa tìm hiểu về tập quán tang ma – tống táng của người dân Cẩm Kim xưa nói riêng và cư dân Hội An nói chung.
* Chú thích
(1) Theo nội dung bảng thông tin tại di tích Nhà thờ tộc Phan Xuân, xã Cẩm Kim: Theo khẩu truyền, trong khoảng thời gian này, ngoài ông Phan Xuân Bành và vợ, còn có thêm 04 em ruột của ông Bành là Phan Xuân Kinh, Phan Xuân Voi, Phan Xuân Cheo và Phan Xuân Leo, nhưng chỉ có ông Bành ở lại đây lập nghiệp. Bốn vị kia đi đâu không rõ.
(2) Một số thông tin trong bài viết tham vấn từ ông Phan Xuân Dương (64 tuổi), đời thứ 12 tính theo phả hệ tộc Phan Xuân - Cẩm Kim, người hiện đang trông coi, lo hương khói nhà thờ.
(2) Một số thông tin trong bài viết tham vấn từ ông Phan Xuân Dương (64 tuổi), đời thứ 12 tính theo phả hệ tộc Phan Xuân - Cẩm Kim, người hiện đang trông coi, lo hương khói nhà thờ.
(3) Theo lời ông Phan Xuân Nhẫn, trước đây người trong tộc Phan Xuân chỉ chuyên về mộc dân dụng (đồ mớp) và mộc xây dựng (nhà cửa) chứ không chuyên về mộc chạm (tộc Huỳnh ở Cẩm Kim thì chuyên về mộc chạm trổ hơn). Về nghề đắp vẽ, tộc có ông Phan Sử (đời thứ 11) chuyên làm việc này. Ông là người thực hiện đắp vẽ bình phong nhà thờ tộc Phan Xuân và các ngôi mộ ở khu mộ tộc Phan Xuân.
(4) Ký tự, phiên âm chữ Hán do CN. Lê Thị Lưu – Chuyên viên phòng Quản lý Di tích thực hiện.
* Tài liệu tham khảo
1. Hồ sơ di tích Nhà thờ tộc Phan Xuân; Khu mộ tộc Phan Xuân (lưu trữ tại Trung tâm Quản lý Bảo tồn Di sản Văn hóa Hội An).
2. Tóm lược lịch sử văn hóa tộc Phan Xuân (nội dung bảng thông tin tại di tích Nhà thờ tộc Phan Xuân, xã Cẩm Kim, thành phố Hội An).
* Phụ lục ảnh:
Cổng vào khu mộ tổ tộc Phan Xuân
Ngôi mộ số 1
Ngôi mộ số 2
Ngôi mộ số 3
Ngôi mộ số 4
Ngôi mộ số 5
Ngôi mộ số 6
Chú ý: Việc đăng lại bài viết trên ở website hoặc các phương tiện truyền thông khác mà không ghi rõ nguồn http://hoianheritage.net là vi phạm bản quyền