Đô thị cổ Hội An - Di sản Văn hoá Thế giới

https://hoianheritage.net


Cù Lao Chàm qua những tư liệu lịch sử

Từ nhiều ngàn năm trước, Cù Lao Chàm là cụm đảo thuộc lãnh hải, lãnh thổ của vương quốc Champa và sau đó là của Đại Việt, Đại Nam, Việt Nam với nhiều tên gọi Ciam pullo, Chiêm Bất Lao, Tiêm Bích La… nơi đây từng là điểm dừng chân quen thuộc của thương thuyền nhiều nước ở phương Đông cũng như phương Tây trên các chuyến hải trình thuộc các con đường hương liệu, tơ lụa, gốm sứ trên biển. Vị thế địa lịch sử-văn hóa của Cù Lao Chàm đã được nhắc đến qua nhiều tư liệu lịch sử của Việt Nam và các tư liệu nước ngoài. Qua những tư liệu này, chúng ta nhận thấy được vị trí tiền tiêu, cột mốc cũng như thấy được đời sống kinh tế, văn hóa-xã hội của con người ở Cù Lao Chàm được các học giả miêu tả một cách sinh động, chi tiết.
          Thời Champa (thế kỷ II đến thế kỷ XV), Cù Lao Chàm đã trở thành nơi dừng chân buôn bán, giao thương của các nước trên biển Đông. Thư tịch cổ Ả Rập thế kỷ thứ X đã ghi chép: “Tàu từ Hind (Ấn Độ) đến Sanf (Champa) mất 10 ngày. Ở đây có nước ngọt và trầm hương xuất khẩu. Họ dừng lấy nước ngọt ở Sanf-Fulaw, Cham Pulaw (Cù Lao Chàm) rồi định hướng đi đến Sin (Trung Quốc)”[1].

          Trong Kiến văn tiểu lục của học giả Lê Quý Đôn, đã nhắc đến Cù Lao Chàm vào năm 1656 về việc Minh Châu Hương Hải thiền sư sau khi từ quan đã xuất gia, rồi vượt thuyền đến núi Tiêm Bút La (Cù Lao Chàm) trong biển Nam Hải, dựng 3 gian am nhỏ để ở, chăm chỉ tu trì luật tam giới hơn 8 tháng trời[2]. Đến năm 1695-1696, thiền sư Trung Hoa Thích Đại Sán miêu tả về Cù Lao Chàm trong Hải ngoại kỷ sự: “Ngày 24, thuyền chủ viết lên cột buồm mấy chữ lớn như sau: Ai thấy núi trước, thưởng trên một quan. Mỗi người đều hớn hở, tỏ ý vui mừng. Qua ngày 27 gần đúng ngọ có người reo lớn lên trên đầu cột (Kìa kìa, núi đó rồi). Người đó chính là A Ban vậy. Cả thuyền reo lên cười mừng nhưng chưa ai thấy gì, mọi người trương mắt chăm chú nhìn, chặp lâu trăm người có một người thấy, lại chặp lâu mười người có một người thấy. Chừng ấy, người coi lái bàn nên vào cửa nào. Thuyền chủ lái buôn muốn vào cửa Hội An để bán hàng cho tiện, tăng chúng muốn vào cửa Thuận Hóa để sớm yết kiến Quốc Vương… Nay gió vào Hội An thuận, hoặc vào Thuận Hóa thuận chăng? Điều giả lời vào Thuận Hóa thuận. Ta cười bảo nếu vậy cứ vào Thuận Hóa. Ngươi coi lái biết không thể cãi, nhìn nhau rồi quyết định. Buông gió một chặp vào đến vòng núi, ấy là đảo Tiêm Bích La (Cù Lao Chàm)”[3].

           Cù Lao Chàm còn là nơi các thuyền buôn trú ngụ và được cứu giúp khi gặp nạn trên biển, sách Trú Vĩnh Biên của Triều Tiên ghi lại việc 24 người dân Tế Châu, Triều Tiên bị đắm thuyền dạt vào Cù Lao Chàm năm 1687. Họ được người dân ở đây cứu giúp, cho nước uống, lương thực và đưa vào đất liền để chờ ngày về nước[4]. Hay Thái Đình Lan trong tác phẩm Hải Nam tạp trứ ghi lại sự việc năm 1835 ông cùng thủy thủ đoàn gặp nạn thuyền dạt vào Cù Lao Chàm và được người ở đây cứu sống như sau: “… Hòn đảo nhỏ nơi các ông dạt vào là đảo Chiêm Bất La (Cù Lao Chàm). Hai phía đông tây đảo dòng chảy rất xiết, giữa có một luồng vào cảng rất hẹp, nhưng nếu thuyền không nhân theo hải triều thì không thể vào được, húc đá là chìm ngay! Theo hướng tây rồi chuyển về hướng nam thì vào được trong cảng[5].

           Đến thế kỷ XVIII, Cù Lao Chàm được học giả Lê Quý Đôn ghi lại trong Phủ biên tạp lục:“Phủ Thăng Hoa, ở ngoài cửa Đại Chiêm có núi to gọi là Cù Lao Chàm, ba ngọn núi đối nhau, hai ngọn lớn mà xanh tốt, có dân cư ruộng nương, có các thứ cam, quýt, đỗ lạc, trên suối có nước ngọt, một ngọn thì nhỏ mà khô khan, ra biển 2 canh thì đến…[6].  Hay J. Barrow khi đến Đàng Trong, ghé qua Cù Lao Chàm và ghi lại như sau: Một hòn đảo nhỏ có tên là Callao (có tên là Pulo Champello, tức Cù Lao Chàm), nằm cách phía nam vịnh Turon chừng 30 dặm… Hòn đảo này hoàn toàn kiểm soát lối ra vào của nhánh chính con sông mà Faifo-trước đây là nơi buôn bán chính của nền ngoại thương - nằm trên đó, hai bên sườn đảo hầu như hoàn toàn không thể tiếp cận được nhưng nó lại nằm đối diện với cửa con sông này[7].

            Bên cạnh vị trí tiền tiêu, điểm dừng chân của tàu thuyền trên biển, Cù Lao Chàm còn đóng vai trò là bức bình phong, là trấn sơn trên biển của cửa Đại Chiêm. Điều này được nhắc đến trong Đại Nam Nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn được biên soạn dưới thời vua Tự Đức (1829-1883) thế kỷ XIX: “Cách huyện Diên Phước 68 dặm về phía Đông, ngất ngưỡng giữa biển gọi là đảo Ngoạ Long, cũng gọi là hòn Cù Lao, có tên nữa là Tiêm Bút, tên cổ là Chiêm Bất Lao, làm trấn sơn cho cửa biển Đại Chiêm; dân phường Tân Hợp ở phía nam núi; ruộng trên núi có thể cày cấy; thuyền bè nước ta thường trông núi này làm chừng đi về đều đỗ ở đây để lấy củi, nước…” [8].

           Vị thế chiến lược của Cù Lao Chàm được William Alexander nhắc đến trong Họa phẩm về Đàng Trong: “Vì cần có nơi neo tàu khi mùa gió tây nam nên người Pháp càng thêm tha thiết một khi chiếm được đảo Callao (Cù Lao Chàm) thể nào cũng tìm cách chiếm một địa điểm gần đó trên đất liền ở Đàng Trong. Bờ biển nơi đây có rất nhiều sông ngòi có thể đi lại được. Vào mùa bến đỗ phải đến vài trăm thuyền buôn, trọng tải từ bốn mươi đến một trăm năm mươi tấn từ khắp các hải cảng ở Trung Hoa thường ghé xuống Đàng Trong mua hàng, chủ yếu là cau và đường, riêng đường cũng đã đến 40.000 tấn mỗi năm. Họ trả cho hàng này một số ít là sản phẩm của Tàu nhưng chính yếu là bằng bạc”[9].

          Sang thế kỷ XX, trong tập điều tra về làng xã ở Quảng Nam do Viện Viễn Đông bác cổ thực hiện trong những năm 1941-1943, các tác giả đã khái quát diện mạo đời sống kinh tế, văn hóa – xã hội của cư dân ở Cù Lao Chàm khá sinh động, chi tiết: “… Tân Hiệp xã có 20 mẫu ruộng một vụ, có rừng, dân số được 300 nhân mạng. Thổ sản của làng này đặc biệt hơn hết là gỗ, cây, củi, mây, lá tơi cùng nhiều nhất là yến, đồi mồi, xà cừ. Làng có ruộng nên dân làng chuyên về nghề nông một ít. Nghề đánh cá cũng thịnh hành. Nghề làm củi trong những tháng mà không làm ruộng và không đánh cá. Trong ba nghề này trừ ra, hầu hết dân làng không làm nghề gì khác. Nhưng về thương mãi bằng ghe buồm với các chỗ khác cũng đơn sơ thôi…”[10].   

          Có thể nói, thông qua các tư liệu lịch sử này, Cù Lao Chàm trước đây và hiện nay là cụm đảo có vị trí chiến lược quan trọng về quân sự, an ninh hàng hải và điểm dừng chân của các tàu thuyền khi gặp nạn. Hiện nay, Cù Lao Chàm là điểm tham quan hấp dẫn đối với du khách trong và ngoài nước.
 

[1] Hoàng Anh Tuấn (2007), “Cù Lao Chàm và hoạt động thương mại ở biển đông thời vương quốc Champa”, trong Kỷ yếu Cù Lao Chàm – Vị thế, tiềm năng và triển vọng, Trung tâm QLBT Di tích Hội An xuất bản, tr.121.
[2] Lê Quý Đôn (2007), Kiến văn tiểu lục, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, tr. 472.
[3] Thích Đại Sán (1963), Hải ngoại kỷ sự, UB phiên dịch Sử liệu, Viện Đại học Huế, Sài Gòn xuất bản, tr. 30-31.
[4] Bản sao sách này hiện lưu trữ tại Trung tâm QLBT Di sản Văn hóa Hội An.
[5] Thái Đình Lan (2006), Hải Nam tạp trứ, Trần Ích Nguyên giới thiệu, Nxb Lao động, tr.168-169.
[6] Lê Quý Đôn (1977), Phủ biên tạp lục, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 116.
[7] J. Barrow (2011), Một chuyến du hành đến xứ Nam Hà 1792-1793, Nxb Thế Giới, tr.102.
[8] Quốc sử quán triều Nguyễn (1999), Đại Nam nhất thống chí, Nxb Thuận Hóa, tr.358-359.
[9] Nguyễn Duy Chính, William Alexander và Họa phẩm về Đàng Trong, tr.30-31.
[10] Tập điều tra về làng xã Quảng Nam do Viễn Đông Bác cổ học viện thực hiện năm 1941-1943, Bản sao lưu giữ tại Trung tâm QLBT Di sản Văn hóa Hội An.

Tác giả: Phạm Phước Tịnh

Nguồn tin: Trung tâm Quản lý Bảo tồn Di sản Văn hóa Hội An

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây